Nằm trong quần thể di tích lịch sử Côn Sơn – Kiếp Bạc, Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương, đền Kiếp Bạc là nơi gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp của anh hùng dân tộc Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1228 - 1300). Với vị trí ở giữa một thung lũng với cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, sông nước giao hòa cùng hệ thống kiến trúc độc đáo, đền Kiếp Bạc là nơi du khách có những khám phá thú vị về văn hóa Việt Nam cùng chiến tích lừng lẫy trong lịch giữ nước. Cái tên Kiếp Bạc là ghép từ tên của hai vùng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Khu vực đền Kiếp Bạc nằm trong một thung lũng trù phú, xanh tươi, ba phía có dãy núi Rồng bao bọc, phí trước là Lục Đầu Giang, nơi hội tụ của sáu con sông: sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Thầy và nhánh chính của sông Thái Bình. Vị trí Đền Kiếp Bạc xưa cũng là đầu mối huyết mạch giao thông đường thủy bộ trấn giữ cửa ngõ phía đông Kinh thành Thăng Long xưa (Hà Nội ngày nay). Chính vì vậy sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất (1258), Trần Hưng Đạo đã chọn khu vực này làm trung tâm chỉ huy của phòng tuyến quân sự vùng Đông Bắc, kéo dài từ biên giới Lạng Sơn ra biển Đông, nhằm tạo thế trận chống giặc Nguyên Mông lần thứ 2 (1285) và lần thứ 3 (1288). Sau khi Trần Hưng Đạo mất, để tưởng nhớ công lao to lớn của ông đối với đất nước, nhân dân địa phương đã lập đền thờ trên vị trí trung tâm chỉ huy xưa kia, đặt tên là Kiếp Bạc và tôn ông làm Đức Thánh Trần. Bà Nguyễn Thị Thùy Liên, Phó Trưởng Ban quản lý di tích Côn Sơn kiếp bạc, cho biết: "Hiện nay thì trên cả nước ta có hàng nghìn di tích thờ Hưng Đạo đại vương. Tuy nhiên với Vạn Kiếp đây là một mảnh đất gắn bó rất sâu sắc với cuộc đời và sự nghiệp của người. Nếu như Nam Định là quê hương của Đức Thánh Trần và Trần Thương ở Hà Nam là kho quân lương lớn nhất của nhà Trần thì Vạn Kiếp là nơi đại bản doanh và là nơi mà người cống hiến cả cuộc đời và sự nghiệp và cũng là nơi mà người mất tại tư dinh Vạn Kiếp này. Hiện nay thì rất nhiều trên cả nước có di tích thờ đức thánh Trần nhưng tuy nhiên ở Vạn Kiếp, Kiếp bạc với những tình cảm mà Đức Thánh Trần gắn bó với Vạn Kiếp cả khi người còn sống và khi người hiển thánh mất đi. Cho nên Kiếp Bạc trong tâm thức của dân gian đây là thánh địa thờ đức Thánh Trần".Đền Kiếp Bạc hướng ra sông Lục Đầu với cổng lớn nguy nga, đồ sộ cùng ba cửa ra vào. Trên mặt ngoài cổng có 9 chữ lớn, trong đó phía trên là 4 chữ "Hưng thiên vô cực", phía dưới là 5 chữ "Trần Hưng Đạo Vương từ" và hai cột câu đối “Kiếp Bạc hữu sơn giai kiếm khí/ Lục Đầu vô thủy bất thu thanh” (Kiếp Bạc muôn ngọn núi đều có hùng khí của kiếm thiêng/ Lục Đầu không còn nước nào chẳng vọng tiếng thu). Qua cổng lớn, bên trái có Giếng Ngọc mắt rồng không bao giờ cạn nước. Đền Kiếp Bạc có 3 tòa điện lớn. Tại vị trí trang trọng nhất là tòa điện giữa, đặt tượng thờ Trần Hưng Đạo. Tòa điện ngoài cùng đặt tượng thờ Tướng quân Phạm Ngũ Lão là con rể Trần Hưng Đạo. Tòa điện trong cùng đặt tượng thờ Quốc mẫu Thiên Thành công chúa, vợ của Trần Hưng Đạo và hai con gái. Trong đền còn đặt 4 bài vị thờ 4 con trai của Trần Hưng Đạo. Bà Nguyễn Thị Thùy Liên, Phó Trưởng Ban quản lý di tích Côn Sơn kiếp bạc, cho biết thêm: "Toàn bộ khu Đền Kiếp Bạc này được khởi dựng từ thời nhà Trần khi mà mua Trần Anh Tông cho xây dựng để phụng thờ đức Thánh Trần (năm 1300). Toàn thể công trình kiến trúc của đền Kiếp Bạc được bố trí theo lối cung đình. Niên đại của đền Kiếp Bạc đây là từ thời nhà Nguyễn (1802 - 1945) và trước đó đã được tôn tạo nhiều lần. Toàn bộ khu vực sân đá cũng được tôn tạo từ thời nhà Nguyễn vào năm Khải Đinh thứ 21. Cho đến nay qua nhiều năm tôn tạo và mới nhất là năm 2012 có tôn tạo lại sân để phục vụ cho bà con nhân dân về lễ thánh".Hội đền Kiếp Bạc, lễ hội truyền thống kỉ niệm ngày mất của anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, diễn ra vào mùa thu từ ngày 15 – 20/8 âm lịch. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất nước, thu hút hàng vạn người từ khắp mọi miền đất nước về đây trẩy hội. Chị Hoàng Thị Phượng, du khách Hà Nội, cho biết: "Tôi đi lễ hội Kiếp Bạc là đến tưởng nhớ...
Read moreĐịa danh Chí Linh gắn với nhiều nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thị Duệ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thái Học v.v...
Chí Linh được hình thành từ lâu đời, năm 981 vua Lê Đại Hành đã chọn An Lạc là cơ sở chỉ huy chống quân xâm lược Tống. Trải qua các thời kỳ phong kiến Chí Linh đã được nhiều triều đại chọn là nơi xây dựng cung thành, tỉnh lỵ như thành Phao (Phả Lại) – đời nhà Mạc, thành Vạn (Tân Dân) Chí Linh còn có tên gọi là Bằng Châu hay Bằng Hà sau đó đổi tên là Phượng Hoàng và sau này là Chí Linh. Tháng 6 năm 1886, thực dân Pháp thành lập Nha Chí Linh thuộc phủ Nam Sách. Sau Cách mạng tháng 8, chính quyền [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt thành huyện Chí Linh. Tháng 4 năm 1947, huyện Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Hồng; tháng 11 năm 1948, Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Yên; từ tháng 2 năm 1955, Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương, ban đầu gồm thị trấn Phả Lại, thị trấn nông trường Chí Linh và 20 xã: An Lạc, Bắc An, Cẩm Lý, Chí Minh, Cổ Thành, Cộng Hòa, Đan Hội, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tân, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Thái Học, Văn An, Văn Đức, Vũ Xá.
Ngày 06.04.1946 ông Đào Bá Sủng là chủ tịch dân bầu đầu tiên của Huyện Chí Linh, sau này ông còn là Giám đốc sở Lương thực tỉnh Quảng Ninh
Ngày 21 tháng 1 năm 1957, chuyển 3 xã: Vũ Xá, Cẩm Lý, Đan Hội về huyện Lục Nam của tỉnh Bắc Giang quản lý.
Ngày 27 tháng 3 năm 1978, thành lập thị trấn Sao Đỏ - thị trấn huyện lị của huyện Chí Linh.
Ngày 14 tháng 1 năm 2002, giải thể thị trấn nông trường Chí Linh và thành lập thị trấn Bến Tắm trên cơ sở 412,88 ha diện tích tự nhiên và 5.703 nhân khẩu của xã Bắc An.
Từ đó, huyện Chí Linh có 20 đơn vị hành chính gồm 3 thị trấn: Sao Đỏ (huyện lị), Phả Lại, Bến Tắm và 17 xã: An Lạc, Bắc An, Chí Minh, Cổ Thành, Cộng Hòa, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tân, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Thái Học, Văn An, Văn Đức.
Ngày 12 tháng 2 năm 2010, huyện Chí Linh đã được Chính phủ nâng cấp thành thị xã Chí Linh1 , đồng thời thành lập 8 phường: Bến Tắm, Phả Lại, Sao Đỏ, Chí Minh, Cộng Hòa, Hoàng Tân, Thái Học, Văn An trên cơ sở 3 thị trấn và 5 xã có tên tương ứng.
Ngày 25 tháng 6 năm 2015, thị xã Chí Linh được công nhận là đô thị loại 3.
Theo quy hoạch chung đô thị Hải Dương đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, toàn bộ thị xã Chí Linh sẽ được nâng cấp lên thành thành phố Chí Linh, gồm 16 phường: An Lạc, Bến Tắm, Chí Minh, Cổ Thành, Cộng Hòa, Đồng Lạc, Hoàng Tân, Hoàng Tiến, Kênh Giang, Nhân Huệ, Phả Lại, Sao Đỏ, Tân Dân, Thái Học, Văn An, Văn Đức và 4 xã: Bắc An, Hoàng Hoa Thám, Hưng Đạo, Lê Lợi.
Địa lý Thị xã nằm ở phía đông bắc tỉnh Hải Dương, cách thành phố Hải Dương 40 km. Phía đông giáp thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Phía tây giáp tỉnh Bắc Ninh. Phía nam giáp huyện Nam Sách. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang.
Phía bắc và đông bắc của thị xã là vùng đồi núi thuộc cánh cung Đông Triều, ba mặt còn lại được bao bọc bởi sông Kinh Thầy, sông Thái Bình và sông Đông Mai.
Thị xã được chia thành 8 phường (Bến Tắm, Phả Lại, Sao Đỏ, Chí Minh, Cộng Hòa, Hoàng Tân, Thái Học, Văn An) và 12 xã (An Lạc, Bắc An, Cổ Thành, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Văn Đức), trong đó có 13 xã, phường là miền núi, chiếm 76% diện tích và 56% dân số của toàn thị xã. Ngoài ra còn có Trường ĐH Sao Đỏ, trên 120 cơ quan đơn vị, nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp đóng trên địa bàn.
Chí Linh nằm trong vùng tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Nó có đường giao thông thuận lợi. Đường bộ có Quốc lộ 18 chạy dọc theo hướng đông-tây qua trung tâm thị xã nối liền Hà Nội - Quảng Ninh, đường Quốc lộ 183 nối Quốc lộ 5 và đường 18, đường 37 là đường vành đai chiến lược quốc gia từ trung tâm thị xã đi tỉnh Bắc Giang. Đường thủy có chiều dài 40 km đường sông bao bọc phía đông, tây, nam của thị xã thông thương với Hải Phòng, Bắc Giang, Đáp Cầu (Bắc Ninh).
Khí hậu Chí Linh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ rệt, mùa khô hanh lạnh từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa...
Read moreĐền Kiếp Bạc được vua Trần Thánh Tông xây dựng để tưởng nhớ công đức lớn lao trừ được giặc dữ, ngăn được họa lớn cho đất nước của Hưng Đạo Vương. Đền Kiếp Bạc nằm ở hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Kiếp Bạc là tên ghép của hai vùng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Đây là nơi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lập căn cứ địa, tích trữ lương thực và huấn luyện binh sĩ trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỉ XIII.
Điểm nổi bật của đền chính là chiếc cổng với 3 cửa lớn, nguy nga và cổ kính. Bên trong có Giếng Ngọc với truyền thuyết không bao giờ cạn nước, phía Bắc có Hang Tiền - nơi cất giấu ngân khố phục vụ kháng chiến khi xưa.
Mặt trước tam quan có hàng chữ lớn: "Giữ thiên vô cực", nghĩa là "Sự nghiệp sống mãi với đất trời". Dọc 2 bên cột có câu đối "Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí/ Lục Đầu vô thủy bất thu thanh", dịch nghĩa: Vạn Kiếp núi lồng hình kiếm dựng/ Lục Đầu vang dậy tiếng quân reo.
Theo văn bia tại di tích, đền Kiếp Bạc được xây dựng sau khi Hưng Đạo Đại vương qua đời năm 1300, vị trí đền ở trung tâm thung lũng Kiếp Bạc, trên khu đất rộng khoảng 13.500 m2.
Vào tháng 8 âm lịch hàng năm, đền Kiếp Bạc sẽ tổ chức Lễ hội mùa Thu để tưởng niệm ngày mất của Đức Thánh Trần Hưng Đạo Đại Vương, đây là một trong những lễ hội quan trọng nhất trong năm. Trong đó, lễ diễn xướng hầu Thánh (lên đồng, hầu đồng) là nghi lễ đặc trưng nhằm tôn vinh công lao, uy đức của Đức Thánh Trần trong công cuộc đấu tranh, bảo vệ đất nước cũng như sự nghiệp xây dựng, phát triển đạo giáo Việt Nam (Đạo Nội). Đặc biệt, lễ Khai ấn và Ban ấn đền Kiếp Bạc hằng năm cũng đông đúc không kém lễ Khai ấn đền Trần (Nam Định). Hiện đền Kiếp Bạc còn lưu giữ 4 ấn tín bằng đồng của Đức Thánh gồm: Trần Triều Hưng Đạo Đại Vương chi ấn, Quốc pháp Đại Vương, Vạn Dược Linh Phù và Phi thiên thần kiếm linh phù.
Bộ ấn đền Kiếp Bạc là những bảo vật quốc gia, gắn với sinh hoạt văn hóa - tâm linh của nhân dân hơn 7 thế kỷ qua. Việc ban ấn là một trong những nghi lễ thiêng, quan trọng, góp phần làm phong phú và đa dạng các hoạt động văn hóa tại khu Di tích Quốc gia đặc biệt Côn Sơn - Kiếp Bạc. Bốn bộ 4 phù ấn bằng đồng của Hưng Đạo Đại Vương còn tới ngày nay gồm: Ấn đầu tiên có hình vuông khắc chữ “Trần triều Hưng Đạo vương chi ấn” (nghĩa là ấn của Hưng Đạo vương). Phù ấn này quan trọng nhất, nó thể hiện sức mạnh và quyền uy mà Đức Thánh Trần ban cho. Ấn thứ 2 cũng có hình vuông nhưng nhỏ hơn khắc chữ “Quốc pháp Đại Vương” có ý nghĩa về uy quyền, buộc phải tuân theo luật pháp. Ấn thứ 3 cũng có hình vuông và nhỏ hơn ấn thứ 2 khắc chữ “Vạn Dược linh phù”. Những ai có được ấn này được sức khỏe dồi dào. Ấn cuối cùng có hình chữ nhật khắc chữ “Phi thiên thần kiếm linh phù” để...
Read more