Chùa Chuông vàng tức Kim Chung Tự vốn nổi tiếng là "đệ nhất danh lam" Phố Hiến. Chùa Chuông nằm tại thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên. Theo truyền xưa có trận đại hồng thủy cuốn theo một bè gỗ trên ngự một quả chuông vàng rất đẹp. Trôi qua nhiều nơi, cuối cùng dạt vào bãi sông thuộc thôn Nhân Dục. Dân làng nhiều người hò reo dốc hết sức kéo chuông lên, ì ạch mãi mà không được. Sau rồi sư cụ ở ngôi chùa nhỏ trong thôn mới lập đoàn rước gồm 10 nam trung, nữ trinh cùng rước chuông lên thì thành công. Từ đó nhân dân trong vùng mới góp tiền của dựng gác chuông, xây lại chùa. Tiếng đồn về chuông vàng - báu vật của chùa lan truyền đi mọi nơi, vua quan phương Bắc lúc đó sai người đóng giả là sư, tìm đến chùa đánh cắp chuông vàng. Biết được dã tâm ấy, các tăng ni trong chùa đành cất giấu dưới giếng. Dần dà, những người giấu chuông đều viên tịch hết, hậu thế cũng không tìm lại được. Có người cho rằng, chuông vàng đã về với đất mẹ. Và để tưởng nhớ quả chuông thiêng ấy, các tăng ni và nhân dân trong vùng liền đổi tên chùa là Kim Chung Tự (tức chùa Chuông vàng). Chùa Chuông được khởi dựng vào thời Hậu Lê (thế kỷ 15). Qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, hiện nay chùa mang kiến trúc kiểu "Nội công ngoại quốc", mặt quay về hướng nam, theo quan niệm của đạo Phật là hướng gắn liền với hạnh phúc và điều thiện. Quần thể kiến trúc trong chùa được bố trí cân xứng, nằm trải dài theo một trục đường thẳng tính từ cổng Tam quan đến nhà Tổ. Cổng Tam quan có các họa tiết, hoa văn trang trí mang ảnh hưởng phong cách mỹ thuật của Trung Quốc, đặc trưng như: hình rồng được đắp nổi trên bề mặt cổng, bức phù điêu về bốn thầy trò Đường Tăng đi lấy kinh ở Tây Trúc... Qua cổng Tam quan là tới cây cầu đá xanh được dựng vào năm 1702, bắc ngang qua ao mắt rồng. Đi tiếp qua khoảng sân rộng sẽ đến nhà Tiền đường 5 gian 2 chái, được kiến trúc theo kiểu con chồng đấu sen. Nối giữa Tiền đường và Thượng điện là khoảng sân nhỏ có cột đá 4 mặt khắc chữ Hán ghi công đức của nhân dân tu sửa chùa. Thượng điện cũng có 5 gian 2 chái, kết cấu giống Tiền đường. Bên trong Thượng điện có nhiều pho tượng đẹp như: tượng Tam Thế, các vị Bồ Tát: Văn Thù, Phổ Hiền, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Phật Thích Ca, Phật A Di Đà… Qua Thượng điện là tới hai dãy hành lang đối xứng nhau dẫn tới nhà Mẫu, nhà Tổ và lầu chuông. Ở hai dãy hành lang đó, có đặt rất nhiều bức tượng được xếp theo thứ tự. Đầu tiên là nhóm tượng phác họa về động "Thập điện Diêm Vương" - diễn tả cảnh nhục hình mà con người phải trải qua nơi âm giới. Tiếp đến là Bát Bộ Kim Cương, rồi đến "Thập Bát La Hán" (18 vị La Hán), Đức Ông, đứng cạnh có Già Lan - Chân Tể và cuối cùng là Đức Thánh Hiền, bên cạnh có Diệm Nhiên - Đại Sỹ.
Đặc biệt pho tượng 18 vị La Hán được dựng khéo léo, nghệ thuật điêu khắc tinh diệu đã hình thành cách bói dân gian khá độc đáo ở chùa Chuông: Cách tính năm chọn tượng, nhắm mắt tìm mình. Cách tính tuổi để tìm tượng ứng với niên vận của mình trong một năm. Lấy số tuổi đẻ (tuổi mụ) chia cho 9, số lẻ là bao nhiêu thì số tượng ứng với mình sẽ là số đó. Kết quả tìm tượng theo một nguyên tắc nhất định, nam bên trái, nữ bên phải.
Ngoài kiến trúc đẹp, bề thế, chùa Chuông còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị như: hoành phi, câu đối…, đặc biệt là tấm bia đá “Kim Chung Tự thạch bi ký” được dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711). Trên bia có ghi tên những người công đức tu sửa chùa và mô tả cảnh đẹp, phố phường của Phố Hiến xưa.
Năm 1992, chùa Chuông đã được Bộ Văn hóa, Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật...
Read moreChùa Chuông nằm trên địa phận phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên (xưa thuộc tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Chùa được xây dựng từ thời Lê (thế kỷ XV), qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, chùa vẫn giữ được nét kiến trúc nghệ thuật thời Hậu Lê (thế kỷ XVII).
Không chỉ nổi tiếng là một địa chỉ tâm linh trong quần thể di tích lịch sử Phố Hiến, chùa Chuông còn là một cảnh quan của Hưng Yên luôn làm nao lòng du khách. Cuốn sách “Hưng Yên tỉnh nhất thống chí” của Trịnh Như Tấu, thời Nguyễn đã khẳng định điều này: “Chùa Chuông – phố Hiến đệ nhất danh lam”.
Chùa còn có tên là Kim Chung Tự bởi gắn với một huyền tích cổ xưa. Tương truyền, vào một năm đại hồng thuỷ, có một quả chuông vàng trên một chiếc bè không biết từ đâu đã trôi dạt vào bãi sông thuộc thôn Nhân Dục. Người dân các nơi đua nhau kéo chuông về địa phương mình nhưng không được, vậy mà bô lão thôn Nhân Dục lại kéo được chuông lên bờ. Cho là điềm lành được trời, phật giúp đỡ, dân làng Nhân Dục bèn góp công, của dựng lại chùa cho rộng rãi hơn và xây lầu treo chuông. Mỗi lần đánh, tiếng chuông vang rất xa.
co kinh chua chuong pho hien hinh 1 Chùa được bố trí cân xứng trên một trục trải dài từ cổng Tam quan đến Nhà tổ. Giữa sân là đường được lát đá xanh dẫn thẳng tới Nhà Tiền đường, Nét đẹp của quần thể kiến trúc chùa Chuông chính là ở bố cục cân đối, nhịp nhàng. Chùa được bố trí cân xứng trên một trục trải dài từ cổng Tam quan đến Nhà tổ.
Qua cổng Tam quan là tới ba nhịp cầu đá xanh, bắc ngang qua ao mắt rồng. Bước tới sân chùa được lát bằng gạch Bát Tràng, du khách được đắm mình trong một không gian rộng rãi, thoáng đãng với cây cối tốt tươi, hoa cỏ mát mắt. Giữa sân là con đường được trải đá xanh dẫn thẳng tới Nhà Tiền đường, Thiên hương, Thượng điện. Nối Nhà Tiền đường và Nhà Mẫu là hai dãy hành lang, được bài trí đối xứng các lớp tượng khác nhau.
Nối giữa Nhà Tiền đường và Thượng điện là khoảng sân, ở giữa có cây hương bằng đá như cột kinh đá xưa, bốn mặt khắc chữ Hán ghi công đức của nhân dân tu sửa chùa.
Nét đặc sắc của ngôi chùa cổ kính này là hệ thống các pho tượng Phật độc đáo được chế tác rất tinh xảo từ đất sét. Nổi bật là Bát bộ Kim Cương, 18 bức tượng La Hán, 4 bức tượng Bồ tát chạy dọc theo hai dãy hành lang. Các pho tượng được tạo tác rất công phu, điêu luyện, mỗi pho tượng có một tư thế, dáng vẻ riêng và có biểu cảm khác nhau.
Chùa còn có bức phù điêu gỗ Thập điện Diêm Vương mô tả cảnh Đường Tăng đi lấy kinh, cảnh địa ngục trần gian ở hai bên hành lang khuyên răn mỗi con người phải biết tu nhân, tích đức nhiều hơn.
Trong chùa còn lưu giữ được nhiều di vật như: hoành phi, câu đối, đồ thờ, bia đá, trong đó có tấm bia đá "Kim Chung tự thạch bi ký" dựng năm Vĩnh Thịnh (1711) và cây hương đá “thạch trụ” mô tả cảnh chùa, cảnh đẹp của Phố Hiến xưa và ghi công đức tu tạo chùa của nhân dân. Phía cuối là lầu chuông, lầu khánh, nhà tổ.
Năm 1992, Chùa Chuông đã được Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật. Chùa đã được đón nhiều vị lãnh đạo Nhà nước tới thăm quan, vãn cảnh.
Trong cơn lốc đô thị hóa, bê tông hóa, trùng tu hóa chùa chiền đang diễn ra xung quanh, chùa Chuông đang giữ được vẻ vẹn nguyên, trầm mặc cùng thời gian. Đến chùa Chuông vãn cảnh du khách thấy được đắm mình trong một thế giới khác, thật yên bình...
Read moreChùa Chuông có kết cấu kiểu "Nội công ngoại quốc", bao gồm các hạng mục: Tiền đường, Thượng điện, Nhà tổ, Nhà mẫu và 2 dãy hành lang. Mặt tiền chùa quay hướng Nam, đó là hướng của "Bát Nhã" và "Trí Tuệ". Chùa được bố trí cân xứng trên một trục trải dài từ cổng Tam quan đến Nhà tổ. Qua cổng Tam quan là tới ba nhịp cầu đá xanh, bắc ngang qua ao (mắt rồng), cây cầu được xây dựng năm 1702. Tiếp đến là con đường độc đạo được lát đá xanh dẫn thẳng đến nhà tiền đường, theo quan niệm nhà Phật là con đường chân chính dẫn dắt con người thoát khỏi bể khổ.
Tiền đường sửa Nhà Tiền đường có quy mô năm gian hai chái, kết cấu kiến trúc kiểu con chồng đấu sen. Nối giữa tiền đường và Thượng điện là khoảng sân, giữa sân có cây hương đá còn gọi là "Thạch trụ", bốn mặt khắc chữ Hán ghi công đức của nhân dân đóng góp tu sửa chùa.
Thượng điện sửa Thượng điện cũng gồm năm gian hai chái, kết cấu giống nhà Tiền đường, mang đậm nét kiến trúc thời Hậu Lê. Hệ thống tượng ở thượng điện được bài trí theo thứ tự: trên cùng là 3 pho Tam Thế; tiếp đến là A-di-đà và tứ Bồ-tát; lớp dưới là Văn Thù và Phổ Hiền; tiếp theo là Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu; tiếp nữa là Địa Tạng Vương và Phạm Thiên, Đế Thích; sau cùng là tòa Cửu Long và tượng Thích Ca sơ sinh.
Nhà Mẫu sửa Ở hai đầu phía Đông và phía Tây nối nhà Tiền đường và nhà Mẫu là hai dãy hành lang, kiến trúc kiểu kèo cầu quá giang đơn giản. Hai dãy hành lang được bài trí đối xứng các lớp tượng khác nhau. Đầu tiên là động "Thập điện Diêm Vương", diễn tả cảnh nhục hình mà con người phải trải qua nơi âm giới. Đây là triết lý nhân quả của nhà Phật, người ta tin rằng con người sống trên dương thế, khi từ giã cõi đời phải trải qua 10 cửa điện để Diêm Vương xét hỏi công và tội. Ứng với mỗi tội đồ là một hình phạt tương ứng. Tiếp đến là tượng Bát Bộ Kim Cương, sau đó là 18 pho "Thập Bát La Hán", 18 vị được tạo tác trong tư thế ngồi rất sinh động, rất đời thường. Nét độc đáo của tượng "Thập Bát La Hán" không phải chỉ ở sự khéo léo trong cách tạo tác mà còn ở cảm xúc nội tâm được biểu hiện qua từng khuôn mặt buồn, vui, trầm tư... mỗi người một vẻ. Cuối dãy hành lang là tượng Đức Ông đứng cạnh có Già Lam - Chân Tể và tượng Đức Thánh Hiền, đứng cạnh có Diệm...
Read more