Theo tư liệu của Bảo tàng Bà Rịa - Vũng Tàu thì có khác một chút:
Cô tên Lê Thị Hồng Thủy, quê quán ở Phan Rang (hoặc Bình Thuận). Cô là con gái duy nhất của ông Lê Văn Khương và bà Thạch Thị Hà, thường theo cha vào vùng Bà Rịa và Gò Công (Tiền Giang) buôn bán. Cô rất yêu cảnh mến người và không muốn rời xa vùng đất này. Trong một lần vào Nam buôn bán, thuyền neo đậu tại vũng Mù U (Long Hải), Cô đã xin cha ở lại nơi đây sinh sống lâu dài. Lúc ấy Cô mới 16 tuổi. Người cha không bằng lòng, buộc cô phải trở về quê hương cùng ông. Khi thuyền nhổ neo rời bến khá xa, nhìn lại trong thuyền không thấy cô, ông quay lại tìm kiếm ba ngày liền nhưng không thấy. Ông buồn bã quay về quê nhà. Vài hôm sau, xác Cô trôi dạt vào Hòn Hang. Một cụ già ở làng Phước Hải phát hiện. Ngư dân Phước Hải chôn cất Cô trên đồi cát gần nơi tìm thấy xác Cô (đó là Mộ Cô bây giờ). Mộ của Cô luôn được cát bồi đắp, cỏ không mọc được mà ngay bên cạnh một cây đa tươi tốt mọc nhanh như thổi che mát mộ Cô. Sau một thời gian, vùng này có dịch bệnh, rất nhiều người bị đau và chết. Trong khi dịch bệnh đang hoành hành, có người nằm mơ thấy Cô báo sẽ giúp dân làng. Dân làng đã thắp hương cầu khấn, quả nhiên dịch bệnh qua khỏi. Sau sự việc ấy, người dân xây am thờ phượng, hy vọng Cô sẽ độ trì dân làng làm ăn phát đạt, cuộc sống an lành... Từ đó Cô càng hiển linh. Hàng năm, dân làng tổ chức cúng Cô. Ngày Chính lễ diễn ra lễ hội Nghinh Cô là ngày mất của Cô.
Ngoài ra còn vài truyền thuyết nữa, tình tiết có khác nhau đôi chút nhưng nói chung đều thống nhất những điều: Cô là một trinh nữ, chết trẻ, có mộ ở Long Hải hẳn hoi.
Mộ Cô ở trên đồi Cô Sơn, sát bờ biển, cách Dinh Cô khoảng 1 km.
Bên trong Mộ Cô khá đơn giản
Truyền thuyết cũng nêu rõ lý do nhân dân thờ phụng, cúng bái hàng năm chính là vì sự hiển linh của Cô. Sự hiển linh càng tăng lên khi những ngư dân tới đây cúng bái và cầu nguyện truyền tụng với nhau về những điều được Cô giúp đỡ, phù hộ, che chở trong những lần đi biển hay trong cuộc sống. Và sau những lần được Cô giúp đỡ, họ lại đến cúng bái, dâng phẩm tạ ơn. Lời đồn đại về sự linh thiêng của Cô thế hệ này nối tiếp thế hệ kia ngày càng lan rộng. Vào ngày vía Cô, khách thập phương lại tề tựu về Dinh Cô dự đại lễ, có cả ngư dân từ Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết đến ngư dân Bến Tre, Gò Công, Trà Vinh, Cà Mau, Rạch Giá... và không ít du khách từ thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai về tham dự lễ hội, kết hợp hành hương với nghỉ ngơi, tắm biển, làm cho lễ hội Nghinh Cô trở nên rất đông.
Dinh Cô nằm sát ngay bên bãi biển Long Hải. Ngày trước, nơi thờ Cô chỉ là một ngôi miếu nhỏ bằng cây lá, sát bờ biển. Về sau, do bị thủy triều xâm thực nên dân làng đã dời lên chân núi Thùy Vân. Đầu thế kỷ 20, điện Cô được xây cất, mái ngói. Vào khoảng năm 1930, do có sự tranh chấp đất đai giữa một người Hoa với người Pháp, Điện Cô một lần nữa được dời lên triền núi Thùy Vân (tức là vị trí hiện nay). Lần này điện Cô cũng được xây dựng tương đối khang trang bằng vật liệu gạch, đá, xi măng cốt thép.
Mồng 8 Tết Đinh Mão 1987, một trận hỏa hoạn dữ dội thiêu trụi hoàn toàn bên trong chánh điện. Dân làng đã quyên góp tiền của xây dựng lại Dinh Cô. Năm 1989, người ta xây dựng thêm trước chánh điện một căn nhà hai tầng theo thế dựa vào vách núi trước chánh điện tầng dưới làm nơi tiếp khách, tầng trên là nhà Võ Ca. Liên tiếp các năm sau đó, 1992, 1993 Dinh Cô luôn được xây dựng bổ sung Phật Đài Quan Thế Âm Bồ tát, nhà khách... Qua nhiều lần tu bổ, xây thêm, hiện nay Dinh Cô đã là một tòa nhà đồ sộ dựa vào lưng núi, mặt quay ra biển uy nghi, với tổng diện tích xây dựng gần 1.000 m2.
Chính điện Dinh Cô bài trí 7 bàn thờ (đều làm bằng bệ xi măng). Ngay trung tâm chánh điện là bàn thờ Bà Cô. Nổi bật với bức tượng Bà Cô cao hơn 0,5 mét, mặc áo choàng đỏ, viền kim tuyến lấp lánh, đội mũ gắn ngọc. Phía sau cạnh bàn thờ Bà Cô là bàn thờ Diêu Trì Phật Mẫu, Chúa Cậu (Nhị vị Công tử, tức là Cậu Tài, Cậu Quý), Ngũ Hành Nương Nương, Tứ Pháp Nương Nương (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), Ông Địa, Thần Tài.
(Theo tư liệu của Bảo tàng Bà...
Read moreGiới thiệu: Theo truyền thuyết, Dinh Cô được khởi đầu xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII, thờ một trinh nữ tên là Lê Thị Hồng, thân phụ là ông Lê Văn Khương, thân mẫu là bà Thạch Thị Hà, nguyên quán tại Tam Quan (tỉnh Bình Định). Năm 17 tuổi, cô theo cha vào thành Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) buôn bán trên chiếc thuyền gỗ. Khi ngang qua vùng này thì thuyền gặp giông bão, cô bị rớt xuống biển tử nạn, xác trôi dạt vào hòn Hang, được dân làng phát hiện và tổ chức chôn cất trên gò đất ven biển. Từ đó cô luôn hiển linh, mộng báo điềm lành, diệt trừ dịch bệnh, độ trì bá tánh nên được dân trong vùng lập đền thờ và tôn xưng là: “Long Hải Thần nữ Bảo an Chánh trực Nương nương Chi thần”.
Sách Đại Nam nhất thống chí ghi rõ: “Ngoài mỏm núi có ngọn Thần Nữ, tục gọi mỏm Dinh Cô, có một đống vừa cát vừa đá, trước kia có người con gái chừng 17-18 tuổi bị bão dạt đến đây, được người địa phương chôn cất, sau đó mộng thấy người con gái ấy, tự xưng là Thị Cách đến đây giúp đỡ, người ta cho là thần, lập đền thờ nay vẫn còn”.
Ban đầu Dinh Cô chỉ là ngôi miếu nhỏ, mái tranh vách đất, nằm kề bãi biển. Do bị sóng gió cuốn lở đất cát nên phải dời lên chân núi. Năm Canh Ngọ (1930) các vị Tiền hiền và nhân dân trong vùng tổ chức quyên góp, xây cất lại Dinh Cô rộng lớn, vững chắc hơn. Cơn hỏa hoạn tối mùng 8 tháng giêng năm Đinh Mão (1987) đã thiêu rụi tòa thánh điện, nên ngư dân địa phương và bá tánh đóng góp xây dựng lại. Đến năm 2006 - 2007, Dinh Cô lại được trùng tu lại theo lối kiến trúc cổ pha lẫn hiện đại.
Ngày nay, Dinh Cô có diện tích trên 1.000 m2. Cổng Tam quan nằm dưới chân mũi Kỳ Vân, hai bên có đặt tượng rồng và cọp, phía trên mái có gắn "Lưỡng long chầu nguyệt" và "song phụng chầu", lối lên các điện thờ là 37 bậc tam cấp. Trong chính điện bài trí 7 bàn thờ, ngay trung tâm là bàn thờ Bà Cô (Lê Thị Hồng), nổi bật với bức tượng Bà Cô cao hơn 0,5 m, mặc áo choàng đỏ, viền kim tuyến, đội mão gắn ngọc. Phía sau cạnh bàn thờ Bà Cô là bàn thờ Diêu Trì Phật Mẫu, Chúa Cậu (Nhị vị Công tử, tức là Cậu Tài, Cậu Quý), Ngũ Hành Nương Nương, Tứ Pháp Nương Nương (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), Ông Địa, Thần Tài. Ngoài chính điện, ngư dân còn lập bàn thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, Chúa Ngọc Nương Nương, Chúa Tiên Nương Nương, Chư vị, Bà Mẹ Sanh, Tiền hiền, Hậu hiền... và các miếu thờ: Hỏa Tinh Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Quan Thế Âm Bồ Tát...
Mộ Cô ở về phía Tây Nam, cách Dinh thờ khoảng 1km, được xây trên đồi Cô Sơn, nằm sát bờ biển, từ dưới đi lên mộ, du khách phải hết 60 bậc thang.
Hàng năm vào các ngày 10, 11 và 12 tháng 2 âm lịch, tại Dinh Cô mở lễ hội lớn (còn gọi là ngày Vía Cô hay Lệ Cô) tưng bừng náo nhiệt. Lễ hội Dinh Cô còn là nét đặc sắc sinh hoạt văn hóa dân gian miền biển với nhiều tiết mục: rước kiệu, múa hát bả trạo, múa lân... Đây là một trong những lễ hội lớn ở Nam Bộ thu hút rất nhiều người đến tham quan...
Read moreTheo truyền thuyết, Dinh Cô được khởi đầu xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII, thờ một trinh nữ tên là Lê Thị Hồng, thân phụ là ông Lê Văn Khương, thân mẫu là bà Thạch Thị Hà, nguyên quán tại Tam Quan (tỉnh Bình Định). Năm 17 tuổi, cô theo cha vào thành Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) buôn bán trên chiếc thuyền gỗ. Khi ngang qua vùng này thì thuyền gặp giông bão, cô bị rớt xuống biển tử nạn, xác trôi dạt vào hòn Hang, được dân làng phát hiện và tổ chức chôn cất trên gò đất ven biển. Từ đó cô luôn hiển linh, mộng báo điềm lành, diệt trừ dịch bệnh, độ trì bá tánh nên được dân trong vùng lập đền thờ và tôn xưng là: “Long Hải Thần nữ Bảo an Chánh trực Nương nương Chi thần”.
Sách Đại Nam nhất thống chí ghi rõ: “Ngoài mỏm núi có ngọn Thần Nữ, tục gọi mỏm Dinh Cô, có một đống vừa cát vừa đá, trước kia có người con gái chừng 17-18 tuổi bị bão dạt đến đây, được người địa phương chôn cất, sau đó mộng thấy người con gái ấy, tự xưng là Thị Cách đến đây giúp đỡ, người ta cho là thần, lập đền thờ nay vẫn còn”.
Ban đầu Dinh Cô chỉ là ngôi miếu nhỏ, mái tranh vách đất, nằm kề bãi biển. Do bị sóng gió cuốn lở đất cát nên phải dời lên chân núi. Năm Canh Ngọ (1930) các vị Tiền hiền và nhân dân trong vùng tổ chức quyên góp, xây cất lại Dinh Cô rộng lớn, vững chắc hơn. Cơn hỏa hoạn tối mùng 8 tháng giêng năm Đinh Mão (1987) đã thiêu rụi tòa thánh điện, nên ngư dân địa phương và bá tánh đóng góp xây dựng lại. Đến năm 2006 - 2007, Dinh Cô lại được trùng tu lại theo lối kiến trúc cổ pha lẫn hiện đại.
Ngày nay, Dinh Cô có diện tích trên 1.000 m2. Cổng Tam quan nằm dưới chân mũi Kỳ Vân, hai bên có đặt tượng rồng và cọp, phía trên mái có gắn "Lưỡng long chầu nguyệt" và "song phụng chầu", lối lên các điện thờ là 37 bậc tam cấp. Trong chính điện bài trí 7 bàn thờ, ngay trung tâm là bàn thờ Bà Cô (Lê Thị Hồng), nổi bật với bức tượng Bà Cô cao hơn 0,5 m, mặc áo choàng đỏ, viền kim tuyến, đội mão gắn ngọc. Phía sau cạnh bàn thờ Bà Cô là bàn thờ Diêu Trì Phật Mẫu, Chúa Cậu (Nhị vị Công tử, tức là Cậu Tài, Cậu Quý), Ngũ Hành Nương Nương, Tứ Pháp Nương Nương (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), Ông Địa, Thần Tài. Ngoài chính điện, ngư dân còn lập bàn thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, Chúa Ngọc Nương Nương, Chúa Tiên Nương Nương, Chư vị, Bà Mẹ Sanh, Tiền hiền, Hậu hiền... và các miếu thờ: Hỏa Tinh Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Quan Thế Âm Bồ Tát...
Mộ Cô ở về phía Tây Nam, cách Dinh thờ khoảng 1km, được xây trên đồi Cô Sơn, nằm sát bờ biển, từ dưới đi lên mộ, du khách phải hết 60 bậc thang.
Hàng năm vào các ngày 10, 11 và 12 tháng 2 âm lịch, tại Dinh Cô mở lễ hội lớn (còn gọi là ngày Vía Cô hay Lệ Cô) tưng bừng náo nhiệt. Lễ hội Dinh Cô còn là nét đặc sắc sinh hoạt văn hóa dân gian miền biển với nhiều tiết mục: rước kiệu, múa hát bả trạo, múa lân... Đây là một trong những lễ hội lớn ở Nam Bộ thu hút rất nhiều người đến tham quan...
Read more