Tháp thờ vua Po Rome (được phong thần sau khi mất) và người vợ đã nhảy vào lửa thiêu cùng với chồng. Đây có lẽ là khu tháp Champa được xây gần như sau cùng, và cũng gần như là ngôi tháp thờ một vị vua Champa duy nhất còn lại và hiện còn người Champa tổ chức thờ cúng hàng năm. Thuở thiếu thời ông là một kẻ du mục chăn dê cho nhà vua, sau cưới con gái vua và được nối ngôi (Đó, chúng ta không thể chọn bố mẹ sinh ra mình, nhưng hoàn toàn có quyền chọn đúng bố mẹ vợ :D). Trong sử sách Champa, ông được người Champa nhắc đến như một vị vua hiền lành, thương dân, kiến tạo thủy lợi nên rất được dân chúng tôn kính và biết ơn. Người vợ thứ ba của ông là một công chúa Việt (kết hôn lúc ông trên dưới năm mươi, còn công nữ Ngọc Khoa chỉ mới mười tám trăng tròn quá chút xíu). Sử Việt gần như không nhắc đến sự kiện này (cũng như chuyện người chị công nữ Ngọc Vạn kết hôn với vua Cao Miên) nhưng trong truyền thuyết và ca dao tục ngữ Champa thì nhắc rất nhiều đến bà. Họ có ý trách cứ, cho rằng chính bà là nguyên nhân dẫn đến việc đất nước Champa sụp đổ. Truyền thuyết kể rằng, vì mê sắc đẹp của bà, vị vua đã tự tay chặt đi cây thần của đất nước Champa chỉ để mong bà khỏi bệnh. Cây thần là biểu tượng thiêng liêng của đất nước, nên cây chết thì đất nước cũng sụp đổ. Dĩ nhiên đó chỉ là truyền thuyết để biện minh chi sự sụp đổ của đất nước theo màu sắc huyền bí. Tuy nhiên theo lịch sử ghi lại thì sau khi vua Po Rome mất thì em trai ông nối ngôi đem quân ra đánh chiếm lại vùng đất Phú Yên thì bị chúa Nguyễn đánh bại và mất luôn vùng đất Khánh Hòa giờ. Champa lúc đó chỉ còn lại vùng đất Bình Thuận và Ninh Thuận. Tiếp sau đó chúa Nguyễn xóa sổ tên Champa đặt trấn Thuận Thành để bảo hộ nước Champa và phủ Bình Thuận (ở vùng đất Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay) để người Việt đến sinh sống chung với dân Champa. Vương quốc Champa từ đó mất hoàn toàn quyền tự chủ cho đến khi vong quốc. Vua Champa từ đó phải được người Việt phê chuẩn và phong chức tướng. Hai cuộc hôn nhân của công Nữ Ngọc Khoa với vua Champa và công nữ Ngọc Khoa với vua Cao Miên không được sử sách Việt nhắc đến như cuộc hôn nhân giữa công chúa Huyền Trân với vua Chế Mân, cũng không được tặng 2 châu Ô, Lý nhưng đó đều là những hôn nhân đem lại lợi ích to lớn cho dân tộc Việt. Nhờ hai cuộc hôn nhân đó mà chúa Nguyễn tạm yên với mặt nam để dồn toàn lực chiến với chúa Trịnh ở phương bắc trước khi chiếm hoàn toàn phần đất còn lại của Champa và vùng đất Thủy Chân Lạp của Cao Miên, miền Nam giàu có của nước Việt...
Read morePo Rome hay còn gọi là tháp Hậu Sanh là một ngôi tháp Chăm Pa hiện đang còn tồn tại tại làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận Tháp nằm trên một trong hai quả núi nhỏ cạnh nhau, hiện nay tháp vẫn được người Chăm thường xuyên làm lễ cầu khấn vào các ngày lễ, tết của mình. Tháp Po Rome là một tháp vuông ba tầng, cao khoảng 8m, cạnh đáy rộng gần 8m. Tháp mở cửa về hướng đông bằng một cấu trúc cổng dạng tiền sảnh, bên trong thân tháp có tượng vua Po Rome được thờ cúng cao khoảng 1,2m. Ngoài tượng vua, còn có một tượng bán thân nữ mà người Chăm gọi là tượng hoàng hậu Po Bia Sancan người Ê Đê cao khoảng 0,75m, còn bên ngoài tháp là tượng bà hoàng hậu Sucih. Kiến trúc Trên mặt tường của thân tháp, trang trí kiến trúc chỉ còn lại hai cột ốp giả ở các góc tường và các cửa giả ở giữa các mặt tường. Cột ốp có ba phần, chân là một đế phẳng không có hình trang trí ốp, thân cột hình chữ nhật đứng, Tại góc các đỉnh cột ốp nhô ra các phiến đá trang trí hình ngọn lửa. Các cửa giả có ba thân để trơn, gồm trán ở cửa phía trên hình mũi giáo ba lớp và khung cửa gồm ba lớp cột ốp ở bên dưới. Trán cửa được khoét rỗng để đặt tượng người ngồi. Hai tầng trên lặp lại y hệt bố cục và hình dáng của phần thân, tầng thứ ba cũng giống như hai tầng dưới, nhưng không có ụ nhọn ở các góc. Đỉnh nóc là một tảng đá lớn hình tháp cong bốn mặt được trang trí bằng những nét khắc vạch. Nội thất của tháp hẹp và kéo dài theo chiều đông-tây, ở khoảng giữa và gần vách tây là tượng vua Po Rome bằng đá, đặt dưới một cái tán bằng gỗ, nội thất được mở ra một đoạn hành lang nhỏ ở tiền sảnh có trần được lát bằng gỗ. Mặc dầu không trang nhã và tinh tế như các tháp cổ hơn, nhưng tháp Po Rome vẫn là một kiến trúc bằng gạch bề thế, hùng tráng của người Chăm. Lịch sử Tháp Po Rome là một trong những tháp xây dựng muộn nhất của người Chăm, tháp được xây dựng vào thế kỷ 17 thuộc phong cách muộn, cũng như tháp Po Klong Garai, đây là ngôi tháp không phải thờ thần như phần lớn các tháp Chăm khác mà là thờ vị vua Po Rome, một trong những vị vua được người...
Read moreTrong tiếng Chăm, “Bimong” là từ chỉ đền/tháp; vì vậy Bimong Po Rome nghĩa là đền–tháp thờ vua Po Rome. Tên này xuất hiện trong tài liệu địa phương và các nguồn nghiên cứu về người Chăm.
Tháp nằm trên đồi Bôn A Cho, làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước (cách trung tâm Phan Rang–Tháp Chàm ~15 km về phía Nam).
Công trình được xây vào thế kỷ XVII để thờ vua Po Rome – vị vua Champa nổi tiếng giai đoạn 1627–1651. Khác nhiều tháp Chăm thờ thần, nơi đây thờ vị vua được thần thánh hóa.
Tháp gạch phong cách muộn, mặt tường còn cột ốp và cửa giả, cửa chính quay hướng Đông. Trung tâm lòng tháp đặt tượng/phù điêu vua Po Rome (dạng mukhalinga – “Thần–Vua”, cao khoảng 1,2 m, hình tượng 8 tay), hiện là Bảo vật quốc gia (QĐ 2283/QĐ-TTg, 31/12/2020). Ngoài ra còn gắn với tượng các hoàng hậu.
Khu đền tháp xưa có tháp chính, tháp cổng, tháp lửa; nay chỉ còn tháp chính. Di tích được xếp hạng cấp quốc gia năm 1992 và đã qua nhiều đợt trùng tu, tôn tạo (đường lên, sân vườn, nhà trưng bày…) nhằm phục hồi tổng thể.
Bimong Po Rome là không gian tín ngưỡng quan trọng của cộng đồng Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận, là điểm hành lễ Lễ hội Katê và các nghi thức thường niên khác của người Chăm.
Trên đỉnh ngọn đồi, nơi tháp Bimong Po Rome toạ lạc, còn là nơi lý tưởng để ngắm nhìn toà cảnh cánh đồng điện gió tại Ninh Thuận nữa...
Read more