Chùa Tứ Kỳ là tên gọi theo địa danh của thôn trước đây, tên chữ là Linh Tiên Tự (Chùa Linh Tiên). Chùa hiện nay thuộc phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Tứ Kỳ là một làng việt cổ, nằm phía Nam kinh thành Thăng Long, một vùng đất có lịch sử tạo dựng và phát triển sớm, một vùng đất hiểm yếu, án ngữ đường thủy phía Nam kinh đô Thăng Long. Tứ Kỳ có tên Nôm là Đình Gạch (Làng Tứ), đặc sản của làng là bún, bún Tứ Kỳ bán khắp các chợ Hà Thành cà dễ nhận biết vì bún được gói trong lá sen, sen có nhiều ở Đầm Đại. Từ xa xưa mảnh đất này đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc, trong suốt quá trình hình thành và phát triển của đất nước. Địa lý lịch sử là cảnh quan thiên nhiên đã tác động mạnh mẽ đến nội dung giá trị lịch sử của di tích lịch sử văn hóa của làng Tứ Kỳ trong đó có ngôi chùa. Căn cứ nguồn tư liệu thành văn hiện còn lưu tại chùa như : tấm bia niên hiệu Chính Hòa (1689), chuông đồng niên hiệu Thiệu Trị (1841) có thể đoán định niên đại khởi dựng ngôi chùa ít nhất là thời gian trước năm 1689 và được trùng tu lớn vào thời Nguyễn. Khối kiến trúc vật chất của chùa hiện nay là sản phẩm của lần tu sửa lớn vào triều Nguyễn và những năm gần đây. Cũng như nhiều ngôi chùa khác trong vùng chùa Tứ Kỳ được xây dựng để thờ Phật nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa tâm linh của cộng đồng dân cư. Chùa là nơi thờ Phật một tôn giáo được du nhập vào nước ta ngay từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Chùa Tứ Kỳ cũng như các chùa làng khác trong vùng thờ Phật theo phái Đại thừa, thờ Tổ, thờ Mẫu theo tín ngưỡng dân gian, thể hiện đạo lý “ uống nước nhớ nguồn”. Những du vật văn hóa hiện còn trong chùa, cùng bộ tượng trong chùa và các công trình kiến trúc hiện còn là những căn cứ minh chứng về nguồn gốc lịch sử, sự biến động đổi thay của ngôi chùa trong lịch sử dân tộc. Chùa Tứ Kỳ được xây trên khu đất rộng liền kề quốc lộ I con đường huyết mạch nối liền hai miền Bắc Nam, có quy mô bề thế khang trang so với một số ngôi chùa khác trong vùng. Các công trình kiến trúc của của được quy hoạch tập trung theo chiều sâu, trong không gian rộng, những nếp nhà cổ ẩn mình dưới những tán cây ăn quả bốn mùa xanh tốt tạo cho cảnh quan của chùa thêm sự thâm nghiêm. Chùa quay về hướng Đông gồm các công trình kiến trúc: cồng tam quan, nhà tiền đường, thượng điện nhà bia, hai nhà dải vũ, tháp Phật, điện thờ Mẫu. Năm 1946 do yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi chùa bị phá để tiêu thổ kháng chiến. Chùa nằm gần nhà Ga Văn Điển, sát đường quốc lộ IA, do vậy chùa là tiêu điểm ném bom của không quân Mỹ nên các công trình kiến trúc của chùa bị hư hại nặng nề. Bằng chứng của tội ác chiến tránh phá hoại là trụ biểu bên phải tiền đường bị bom Mỹ phá cụt phần búp sen. Những công trình kiến trúc hiện nay là sản phẩm của những lần đại trùng tu vào những năm gần đây nhưng mang đậm phong vị kiến trúc tôn giáo truyền thống. Các vị sư trụ trì chùa đều là những người có tâm huyết, đạo pháp và lòng yêu nước. Sư cụ Đàm Dần đã tham gia hoạt động cách mạng, trong kháng chiến chống Pháp, Thời kỳ tiền khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945, chùa Tứ Kỳ là một cơ sở cách mạng của Xứ ủy Bắc Kỳ. Đầm sen sau chùa là nơi ẩn náu của các chiến sỹ cách mạng trong thời kỳ này. Với những công lao đóng góp cho cuộc kháng chiến, sự cụ Đàm Dần đã được Chính Phủ tặng thưởng huân chương kháng chiến. Cổng tam quan xây hai tầng, bố cục kiến trúc theo chiều dọc nhìn ra đường quốc lộ 1A. Cổng làm kiểu vòm cuốn tạo bởi hệ thống các cột trụ biểu, tầng dưới trổ ba cửa vòm cuốn, tầng trên xây kiểu bốn mái, chồng diêm, chính giữa bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt, các đầu đao đều đắp các hình rồng đuôi xoắn, Hàng cột phía ngoài xây kiểu trụ diên, đỉnh hai trụ lớn đắp hình bốn chim phượng đầu quay bốn hướng, đuôi chụm vào nhau tạo thành trái giảnh cách điệu. Đỉnh hai trụ nhỏ đặt tượng nghê ở tư thế hướng vào nhau. Thân trụ tạo gờ nổi, trên ghi đôi câu đối chữ Hán. Qua cổng tam quan dẫn vào khu sân vườn được bố cục hài hòa với các công trình kế tiếp. Hai bên tả hữu là lối vào dựng hai nhà bia kiểu mái chồng diên, đỡ mái mà bốn cột tròn, mặt bằng hình vuông,...
Read moreChùa Tứ Kỳ là tên gọi theo địa danh của thôn trước đây, tên chữ là Linh Tiên Tự (Chùa Linh Tiên). Chùa hiện nay thuộc phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Tứ Kỳ là một làng việt cổ, nằm phía Nam kinh thành Thăng Long, một vùng đất có lịch sử tạo dựng và phát triển sớm, một vùng đất hiểm yếu, án ngữ đường thủy phía Nam kinh đô Thăng Long.
Chùa còn lưu giữ tấm bia niên hiệu Chính Hòa (1689), chuông đồng niên hiệu Thiệu Trị (1841) có thể đoán định niên đại khởi dựng ngôi chùa ít nhất là thời gian trước năm 1689 và được trùng tu lớn vào thời Nguyễn. Chùa Tứ Kỳ cũng như các chùa làng khác trong vùng thờ Phật theo phái Đại thừa, thờ Tổ, thờ Mẫu theo tín ngưỡng dân gian.
Chùa quay về hướng Đông gồm các công trình kiến trúc: cồng tam quan, nhà tiền đường, thượng điện nhà bia, hai nhà dải vũ, tháp Phật, điện thờ Mẫu. Năm 1946 do yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi chùa bị phá để tiêu thổ kháng chiến.
Cổng tam quan xây hai tầng, bố cục kiến trúc theo chiều dọc nhìn ra đường quốc lộ 1A. Cổng làm kiểu vòm cuốn tạo bởi hệ thống các cột trụ biểu, tầng dưới trổ ba cửa vòm cuốn, tầng trên xây kiểu bốn mái, chồng diêm, chính giữa bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt, các đầu đao đều đắp các hình rồng đuôi xoắn, Hàng cột phía ngoài xây kiểu trụ diên, đỉnh hai trụ lớn đắp hình bốn chim phượng đầu quay bốn hướng, đuôi chụm vào nhau tạo thành trái giảnh cách điệu. Đỉnh hai trụ nhỏ đặt tượng nghê ở tư thế hướng vào nhau. Thân trụ tạo gờ nổi, trên ghi đôi câu đối chữ Hán. Qua cổng tam quan dẫn vào khu sân vườn được bố cục hài hòa với các công trình kế tiếp. Hai bên tả hữu là lối vào dựng hai nhà bia kiểu mái chồng diên, đỡ mái mà bốn cột tròn, mặt bằng hình vuông, kiểu phương đình, ở mỗi nhà bia đặt một tấm bia dẹt, dựng trên lưng rùa thể hiện sức sống trường tồn và sự linh thiêng của thần Kim quy trong tín ngưỡng tôn giáo.
Nhà tiền đường xây kiểu chồng diêm, hai tầng mái, mái lợp ngói ta, trên nền cao hơn mặt sân 1m, quay hướng Đông Bắc. Các bộ vì kèo kết cấu kiểu “ chồng rường giá chiêng”, các cột gỗ đỡ mái tạo tròn kiểu “thượng thu – hạ thách “, đặt trên chân tảng trên tròn dưới vuông.
Tòa thượng điện ba gian một đầu nối với gian giữa tiền đường xây chạy dọc về phía sau. Nội thất bốn hàng chân, vác vì kèo đỡ mái kết cấu vì kiểu “chồng rường”, mái lợp ngòi ta, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Nền nhà lát gạch vuông. Nhà tổ ba gian kiểu thường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, ở phía sau chùa. Các bộ vì kèo làm đơn giải kiểu kèo cầu quá giang. Nhà thờ tổ xây ban thờ hai pho thượng Tổ. Điện thờ Mẫu có mặt bằng hình chữ đinh gồm 5 gian tiền bái và hai gian hậu cung, xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Bộ khung đỡ mái bằng gỗ linh vững chắc, các bộ vì kèo kết cấu kiểu “ thượng chồng rường hạ bẩy” và “ thượng chồng rường hạ cốn”. Hai vì gian giữa thể hiện các bức cốn chạm nổi hình rồng và tứ quý ( tùng, cúc, trúc, mai), mỗi bên chạm một tượng nghê tư thế ngồi trên cốn trong tư thế đăng đối, trong khóm trúc tạo hình con sóc nhỏ. Trên thượng lương nhà Mẫu ghi dòng chữ Hán “Hoàng triều Bảo Đại vạn vạn niên chi thập tuế thứ” (1935) ở hai thân câu đầu chạm dòng chữ “ Càn nguyên hanh lợi, trinh và phú, qúy, thọ, khang, ninh” Bốn đầu bẩy chạm nổi hình rồng, sen, lân và hoa dây. Gian bên phải nhà Mẫu đắp hình thạch động đặt các tượng hậu. Gian giữa chính điện ban thờ đặt tượng ngũ vị tôn ông, phía trong ban thờ Tam Thánh Mẫu, gian bên trái đặt tượng đức thánh Trần Hưng Đạo và ba tấm bài vị thờ các vị phu nhân hâu thời lê. Phía bên phải tòa tam bảo xây một ngọn tháp Phật có kích...
Read moreChùa Tứ Kỳ còn có tên Linh Tiên tự thuộc thôn Tứ Kỳ, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Chùa đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa năm 1995.
Theo tấm bia khắc vào tháng 2 năm thứ 8 niên hiệu Chính Hòa (1687) thì chùa có thể xây dựng vào năm này.
Chùa được xây dựng trên một khu đất cao ráo về phía Đông Bắc làng, phía ngoài là tam quan, tiếp đến nhà bia, tiền đường, thượng điện, nhà Tổ, nhà Mẫu và vườn tháp.
Tam quan sừng sững được trạm trổ rồng phượng trông thật uy nghi, qua khỏi tam quan đến 2 nhà bia kiểu phương đình chồng diêm, trong mỗi nhà có 1 tấm bia đá đặt trên lưng rùa.
Tòa tiền đường 5 gian 2 dĩ đầu hồi bít đốc tay ngai, vì kèo kết cấu chồng rường giá chiêng, mái phân thượng tứ - hạ tứ. Thượng điện là ngôi nhà 1 gian, nối liền với toà tiền đường kết cấu hình chữ Đinh. Nhà Tổ được làm theo kiểu đầu hồi bít đốc, kiến trúc đơn giản bằng những vật liệu mới do tu sửa năm 1993. Nhà Mẫu gồm 5 gian. Việc bài trí tượng thờ so với các chùa khác đơn giản hơn vì thiếu bộ tượng Khuyến Thiện, Trừng Ác, Thập điện Diêm vương và tòa Cửu Long.
Sát tường hậu tiền đường, bên phải đặt tượng Thánh Hiền, bên trái là tượng Đức Ông, gần tượng Thánh Hiền là 1 quả chuông khá lớn có khắc chữ "Linh Tiên tự" đúc năm Thiệu Trị 1 (1841).
Dọc gian giữa thượng điện là hệ thống bệ thờ xây gạch, bày các bộ tượng: Quan Âm Nam Hải ở giữa, hai bên là 2 vị Bồ Tát, sau đó là bộ tượng A Di Đà tam tôn, trong cùng phía trên cao nhất là bộ tượng Tam thế.
Tường hậu là nhà thờ Mẫu, trên tòa thạch đống có tượng mà người ta đoán là Chánh vương Phủ Thị Nội Cung Tần họ Nguyễn, tên Diệu Tâm và các pho tượng Ngũ vị tôn ông, Quan Hoàng, Đức Thánh Trần. Tượng trong nhà Tổ đều thể hiện tư thế ngồi, khuôn mặt từ...
Read more