HTML SitemapExplore

Tam Bao Temples — Attraction in Ha Tien City

Name
Tam Bao Temples
Description
Nearby attractions
Phu Dung Pagoda
9FQM+C42, Phù Dung, Bình San, Hà Tiên, Kiên Giang, Vietnam
Nearby restaurants
Everyday Coffee
18 Đặng Thuỳ Trâm, Khu Phố 1, Hà Tiên, Kiên Giang, Vietnam
Thiên Tâm Vegan
155 Mạc Thiên Tích, Pháo Đài, Hà Tiên, Kiên Giang, Vietnam
Nearby hotels
Huynh Huong Guesthouse
47 Đường Chi Lăng, Bình San, Hà Tiên, Kiên Giang 92000, Vietnam
Khách sạn Sài Gòn - Hà Tiên
36 Trần Hầu, Bình San, Hà Tiên, Kiên Giang 91506, Vietnam
Hotels Hai Van
55 Đường Lam Sơn, Bình San, Hà Tiên, Kiên Giang 922000, Vietnam
River Hotel Ha tien
Trần Hầu, Bình San, Hà Tiên, Kiên Giang 440000, Vietnam
Hotel Du Hung 1
27 Trần Hầu, Bình San, Hà Tiên, Kiên Giang, Vietnam
Hà Tiên Homestay
30 Đường Tô Châu, Đông Hò, Hà Tiên, Kiên Giang 920000, Vietnam
Visuha Hotel
9FJM+2WG, 81Trần Hầu, Pháo Đài, Hà Tiên, Kiên Giang, Vietnam
Khách Sạn Dủ Hưng 2
83 Trần Hầu, Pháo Đài, Hà Tiên, Kiên Giang 91507, Vietnam
Kim Co Hotel 2
22 23 Đường Ngô Mây, Pháo Đài, Hà Tiên, Kiên Giang, Vietnam
Nhà nghỉ Nam Phương
19 Đường Ngô Mây, Pháo Đài, Hà Tiên, Kiên Giang 10000, Vietnam
Related posts
Keywords
Tam Bao Temples tourism.Tam Bao Temples hotels.Tam Bao Temples bed and breakfast. flights to Tam Bao Temples.Tam Bao Temples attractions.Tam Bao Temples restaurants.Tam Bao Temples travel.Tam Bao Temples travel guide.Tam Bao Temples travel blog.Tam Bao Temples pictures.Tam Bao Temples photos.Tam Bao Temples travel tips.Tam Bao Temples maps.Tam Bao Temples things to do.
Tam Bao Temples things to do, attractions, restaurants, events info and trip planning
Tam Bao Temples
VietnamKiên Giang ProvinceHa Tien CityTam Bao Temples

Basic Info

Tam Bao Temples

9FPP+3J8, Bình San, Hà Tiên, Kiên Giang, Vietnam
4.4(318)
Open 24 hours
Save
spot

Ratings & Description

Info

Cultural
Scenic
Family friendly
Accessibility
attractions: Phu Dung Pagoda, restaurants: Everyday Coffee, Thiên Tâm Vegan
logoLearn more insights from Wanderboat AI.
Phone
+84 297 3852 109

Plan your stay

hotel
Pet-friendly Hotels in Ha Tien City
Find a cozy hotel nearby and make it a full experience.
hotel
Affordable Hotels in Ha Tien City
Find a cozy hotel nearby and make it a full experience.
hotel
The Coolest Hotels You Haven't Heard Of (Yet)
Find a cozy hotel nearby and make it a full experience.
hotel
Trending Stays Worth the Hype in Ha Tien City
Find a cozy hotel nearby and make it a full experience.

Reviews

Nearby attractions of Tam Bao Temples

Phu Dung Pagoda

Phu Dung Pagoda

Phu Dung Pagoda

4.4

(657)

Open 24 hours
Click for details

Nearby restaurants of Tam Bao Temples

Everyday Coffee

Thiên Tâm Vegan

Everyday Coffee

Everyday Coffee

4.6

(133)

Click for details
Thiên Tâm Vegan

Thiên Tâm Vegan

4.6

(15)

Click for details
Get the Appoverlay
Get the AppOne tap to find yournext favorite spots!
Wanderboat LogoWanderboat

Your everyday Al companion for getaway ideas

CompanyAbout Us
InformationAI Trip PlannerSitemap
SocialXInstagramTiktokLinkedin
LegalTerms of ServicePrivacy Policy

Get the app

© 2025 Wanderboat. All rights reserved.

Reviews of Tam Bao Temples

4.4
(318)
avatar
5.0
5y

Chùa Tam Bảo - Ngôi sắc tứ tại đất Hà Tiên

Theo sách Mạc Thị Gia Phả, sau khi triều đình nhà Thanh được thành lập tại Trung Hoa, một vị quan trung thành với nhà Minh là Mạc Cửu đã rời bỏ quê hương trôi dạt xuống vùng Đông Nam Á. Năm 1695, ông thần Phục vua Chân Lạp và xin được đến làm ăn tại Mang Khảm. Đến năm 1714, Mạc Cửu xin sát nhập Mang Khảm vào xứ Đàng Trong. Chúa Hiển tông Nguyễn Phúc Chu đồng ý phong cho Mạc Cửu chức Tổng binh, sau phong Cửu Lộc hầu. Vùng Mang Khảm được đổi thành trấn Hà Tiên.

Một thời gian sau, thân mẫu của Ngài Mạc Cửu là Thái Thái phu nhân cũng được đưa đến đây. Để có nơi chốn cho mẹ tu hành trong những năm cuối đời, Khai trấn Cửu Lộc Hầu Mạc Cửu đã cho xây dựng chùa Tam Bảo sau khi Thái Thái phu nhân quy y với Hòa thượng Ấn Hạ thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Tu hành được một thời gian, Thái Thái phu nhân tọa hóa trước Phật Đài. Mạc Cửu cho đúc kim thân của mẹ để thờ, đúc một Đại hồng chung để cúng và nghe tiếng chuông mà tưởng niệm mẹ hiền. Năm 1735, Mạc Cửu qua đời, con ông là Mạc Thiên Tứ (hay Mạc Thiên Tích) thay cha làm Đô đốc Tổng binh. Nổi tiếng là một người có tài làm thơ. Mạc Thiên Tích sáng tác 10 bài thơ Nôm lấy tựa chung là “Hà Tiên thập cảnh ngâm khúc” là mười bài vịnh 10 cảnh đẹp Hà Tiên, trong đó có bài “Tiêu tự thần chung” (Tiếng chuông sáng sớm ngân vang ở cảnh chùa tịch mịch) :

Rừng thiền xít xát án ngoài tào Chuông gióng chùa Tiêu tiếng tiếng cao Chà thỏ bạt vang muôn khóm sóng Oai kình tan tác mấy cung sao Não phiền kẻ nấu sôi như vạc Trí huệ người mài sắc tựa đao Mở mịt gẫm dường say mới tỉnh Phù sanh trong một giấc chiêm bao

Đời trụ trì đầu tiên của chùa Tam Bảo là Hòa thượng Ấn Hạ cũng là vị Hòa thượng khai nguyên cho Phật giáo xứ Hà Tiên. Đến nay, chùa Tam Bảo đã trải qua 19 đời trụ trì là những vị chân tăng như Hòa thượng Hòa Quang, Thiền sư Nhất Đới, Thiền sư Trí Tàng, Thiền sư Hoằng Ân, Thiền sư Hải Huệ, Thiền sư Giác Ngạn, Thiền sư Như Đức, Thiền sư Như Khả, Thiền sư Phước Chơn, Hòa thượng Thuần Hạnh, Yết ma Phước Thành, Hòa thượng Phước Ân (1920 - 1946), Hòa thượng Phước Quang, Hòa thượng Quảng Đức, Hòa thượng Vĩnh Đạt, Hòa thượng Chánh Định, Thượng tọa Thiện Giác (1960 - 1974) và  từ năm 1974 đến nay là Ni sư Thích Nữ Như Hải (thế danh Huỳnh Thị Phước).

Sinh năm 1944 tại xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, mẹ mất sớm, cha đi làm ăn xa, thủa nhỏ sống trong tình thương của ngoại và dì , năm 15 tuổi, Ni sư xuất gia tại Quan Âm tu viện vừa tu học vừa dạy trẻ từ lớp 1 đến lớp 5. Năm 1962, Ni sư được Bổn sư đưa đến Diệu Ấn ni tự tại thị xã Phan Rang tu học và sau đó, tiếp tục học thế pháp tại trường Bồ Đề Phan Rang. Đến năm 1963, Ni sư lại được đưa về tu học tại chùa Dược Sư suốt trong 11 năm vừa học thế pháp, vừa học Phật học. Năm 1974, Ni sư được Hòa thượng Thích Huyền Vi và Hòa thượng Thích Thanh Từ cử về trụ trì chùa Sắc Tứ Tam Bảo Hà Tiên cho đến nay. Hiện nay, Ni sư Như Hải là Phó trưởng ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Kiên Giang, Đại biểu HĐND, Ủy viên Chữ Thập Đỏ và Ủy viên MTTQ của thị xã Hà Tiên.

Từ ngày thành lập đến nay, chùa Tam Bảo đã được nhiều lần trùng tu lớn và nhỏ. Hai lần trùng tu được xem là lớn nhất là trong thời gian trụ trì của Hòa thượng Phước Ân (1920 - 1946) và trong thời gian trụ trì của Ni sư Như Hải từ 1974. Trong lần trùng tu lớn thứ 1, Hòa thượng Hồng Ân đã cho xây dựng lại chùa Tam Bảo với dáng vẻ khang trang uy nghiêm như ngày nay và cho trồng một số cây sao đến nay đã trở thành cổ thụ. Lần thứ 2, sau khi được cử về trụ trì chùa Tam Bảo, Ni sư Như Hải đã bắt đầu cho kiến tạo và trùng tu một số công trình như An vị Đức Quán Thế Âm Bồ Tát lộ thiên cao 5 m, nặng 7 tấn (1974), Lợp lại mái ngói Chánh điện và Nhà Tổ (1979), An vị tôn tượng Thiên Thủ Thiên Nhản (1987), An vị Đức Bổn sư Thích Ca ngồi dưới cội Bồ đề (1983), xây dựng cổng Tam quan, phục chế bức tường đã sụp đổ và chỉnh trang cảnh quan xung quanh...

   Read more
avatar
4.0
7y

Theo sách Mạc Thị Gia Phả, sau khi triều đình nhà Thanh được thành lập tại Trung Hoa, một vị quan trung thành với nhà Minh là Mạc Cửu đã rời bỏ quê hương trôi dạt xuống vùng Đông Nam Á. Năm 1695, ông thần Phục vua Chân Lạp và xin được đến làm ăn tại Mang Khảm. Đến năm 1714, Mạc Cửu xin sát nhập Mang Khảm vào xứ Đàng Trong. Chúa Hiển tông Nguyễn Phúc Chu đồng ý phong cho Mạc Cửu chức Tổng binh, sau phong Cửu Lộc hầu. Vùng Mang Khảm được đổi thành trấn Hà Tiên.

Một thời gian sau, thân mẫu của Ngài Mạc Cửu là Thái Thái phu nhân cũng được đưa đến đây. Để có nơi chốn cho mẹ tu hành trong những năm cuối đời, Khai trấn Cửu Lộc Hầu Mạc Cửu đã cho xây dựng chùa Tam Bảo sau khi Thái Thái phu nhân quy y với Hòa thượng Ấn Hạ thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Tu hành được một thời gian, Thái Thái phu nhân tọa hóa trước Phật Đài. Mạc Cửu cho đúc kim thân của mẹ để thờ, đúc một Đại hồng chung để cúng và nghe tiếng chuông mà tưởng niệm mẹ hiền. Năm 1735, Mạc Cửu qua đời, con ông là Mạc Thiên Tứ (hay Mạc Thiên Tích) thay cha làm Đô đốc Tổng binh. Nổi tiếng là một người có tài làm thơ. Mạc Thiên Tích sáng tác 10 bài thơ Nôm lấy tựa chung là “Hà Tiên thập cảnh ngâm khúc” là mười bài vịnh 10 cảnh đẹp Hà Tiên, trong đó có bài “Tiêu tự thần chung” (Tiếng chuông sáng sớm ngân vang ở cảnh chùa tịch mịch) :

Rừng thiền xít xát án ngoài tào Chuông gióng chùa Tiêu tiếng tiếng cao Chà thỏ bạt vang muôn khóm sóng Oai kình tan tác mấy cung sao Não phiền kẻ nấu sôi như vạc Trí huệ người mài sắc tựa đao Mở mịt gẫm dường say mới tỉnh Phù sanh trong một giấc chiêm bao

Từ ngày thành lập đến nay, chùa Tam Bảo đã được nhiều lần trùng tu lớn và nhỏ. Hai lần trùng tu được xem là lớn nhất là trong thời gian trụ trì của Hòa thượng Phước Ân (1920 - 1946) và trong thời gian trụ trì của Ni sư Như Hải từ 1974. Trong lần trùng tu lớn thứ 1, Hòa thượng Hồng Ân đã cho xây dựng lại chùa Tam Bảo với dáng vẻ khang trang uy nghiêm như ngày nay và cho trồng một số cây sao đến nay đã trở thành cổ thụ. Lần thứ 2, sau khi được cử về trụ trì chùa Tam Bảo, Ni sư Như Hải đã bắt đầu cho kiến tạo và trùng tu một số công trình như An vị Đức Quán Thế Âm Bồ Tát lộ thiên cao 5 m, nặng 7 tấn (1974), Lợp lại mái ngói Chánh điện và Nhà Tổ (1979), An vị tôn tượng Thiên Thủ Thiên Nhản (1987), An vị Đức Bổn sư Thích Ca ngồi dưới cội Bồ đề (1983), xây dựng cổng Tam quan, phục chế bức tường đã sụp đổ và chỉnh trang cảnh quan xung quanh chùa (1992).

Vốn xuất thân từ một Đoàn sinh Gia đình Phật tử nên Ni sư rất quan tâm đến tổ chức này. Năm 1985, Gia đình Phật tử chùa Tam Bảo được thành lập đã hướng dẫn thanh thiếu niên tu học tốt, thực hành Bi Trí Dũng trong đời sống. Ngoài ra, chùa Tam Bảo còn tổ chức thọ Bát Quan Trai mỗi tháng, được đặt tên là Đạo tràng Tuệ Giải, không những hướng dẫn Phật tử tu học còn thực hành hạnh từ bi thường tham gia công tác từ thiện xã hội kết hợp với Chữ Thập Đỏ thị xã Hà Tiên để luôn luôn thực hiện phương châm “tốt...

   Read more
avatar
5.0
4y

Chùa tọa lạc ở số 75 đường Phương Thành, phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Chùa có khuôn viên rộng khoảng 2,5 ha. Mặt tiền chùa hướng phía Đông. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Thống binh Mạc Cửu cho dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Sách Gia Định thành thông chí cho biết, thân mẫu của ông Thống binh là Thái Thái phu nhân đã được ông phụng dưỡng ở chùa này, sau bà hóa trước bàn thờ. Ông Mạc Cửu đã chôn cất mẹ ở núi Bình San, đúc tượng Phật A Di Đà bằng đồng thờ ở chùa. Sách Lược sử những ngôi chùa ở Kiên Giang (TT. Thích Giác Phước chủ biên, NXB. TP. Hồ Chí Minh, 2002) cho biết chùa thành lập năm 1730, vị trụ trì đầu tiên của chùa là Hòa thượng Ấn Hạ, cũng là Hòa thượng khai nguyên Phật giáo xứ Hà Tiên. Hòa thượng thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Chùa đã trải qua 19 đời trụ trì: Hòa thượng Hòa Quang, Thiền sư Nhất Đới, Thiền sư Trí Tàng, Thiền sư Hoằng Ân, Thiền sư Hải Huệ, Thiền sư Giác Ngạn, Thiền sư Như Đức, Thiền sư Như Khả, Thiền sư Phước Chơn, Hòa thượng Thuần Hạnh, Yết Ma Phước Thành, Hòa thượng Phước Ân, Hòa thượng Phước Quang, Hòa thượng Quảng Đức, Hòa thượng Vĩnh Đạt, Hòa thượng Chánh Định, Thượng tọa Thiện Giác (1960 – 1974) và từ năm 1974 đến nay là Ni sư Thích Nữ Như Hải (thế danh Huỳnh Thị Phước), Phó Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Kiên Giang. Ngôi chùa xưa đã hỏng, chỉ còn dấu vết ở các bức tường thành. Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc chùa hiện nay do Hòa thượng Phước Ân, dòng Lâm Tế đời thứ 40 cho xây vào năm 1930 và cho trồng một số cây sao. Ni sư Thích nữ Như Hải đã tổ chức trùng tu và kiến tạo một số công trình như: An vị tượng Bồ tát Quan Âm lộ thiên cao 5m, nặng 7 tấn năm 1974 ở vườn cây trước chùa, trùng tu chánh điện và nhà Tổ năm 1979, an vị tượng Thiên Thủ Thiên nhãn năm 1987 sau điện Phật, an vị tượng đức Phật Thích Ca tọa thiền dưới cội bồ đề năm 1983 ở sân trước chùa, xây dựng cổng tam quan, phục chế bức tường đã sụp đổ năm 1992, an vị đài Di Lặc năm 2000 ở sân giữa chùa, an vị tượng Di Mẫu và 6 vị Tỳ kheo ni năm 2003 ở sân trước chùa. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Vị trí cao nhất thờ tượng Di Đà Tam Tôn. Pho tượng đức Phật A Di Đà bằng đồng, cao 1,40m, do ông Mạc Cửu cúng, được tôn trí ở giữa, hai bên đặt tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí. Kế tiếp có tượng đức Phật Thích Ca thành đạo, đức Phật Thích Ca khuyến thiện, tượng Thích Ca đản sanh và tượng đức Phật nhập Niết bàn. Đối diện bàn thờ Phật, có bàn thờ tượng Bồ tát Phổ Hiền, Hộ Pháp, Bồ tát Địa Tạng và Tiêu Diện. Chùa có thành lập Gia đình Phật tử từ năm 1985 và tổ chức Đạo tràng Huệ Giải, thọ Bát quan trai mỗi tháng. Ở sân trước chùa còn có phòng phát hành kinh sách, tranh tượng Phật giáo đa dạng, phong phú. Sắc tứ Tam Bảo là ngôi chùa cổ danh tiếng trong thắng cảnh Hà Tiên. Chùa đã đón tiếp hằng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái hằng năm. (Võ văn Tường - Chùa Việt...

   Read more
Page 1 of 7
Previous
Next

Posts

Ngọc Thảo BáchNgọc Thảo Bách
Chùa Tam Bảo - Ngôi sắc tứ tại đất Hà Tiên Theo sách Mạc Thị Gia Phả, sau khi triều đình nhà Thanh được thành lập tại Trung Hoa, một vị quan trung thành với nhà Minh là Mạc Cửu đã rời bỏ quê hương trôi dạt xuống vùng Đông Nam Á. Năm 1695, ông thần Phục vua Chân Lạp và xin được đến làm ăn tại Mang Khảm. Đến năm 1714, Mạc Cửu xin sát nhập Mang Khảm vào xứ Đàng Trong. Chúa Hiển tông Nguyễn Phúc Chu đồng ý phong cho Mạc Cửu chức Tổng binh, sau phong Cửu Lộc hầu. Vùng Mang Khảm được đổi thành trấn Hà Tiên. Một thời gian sau, thân mẫu của Ngài Mạc Cửu là Thái Thái phu nhân cũng được đưa đến đây. Để có nơi chốn cho mẹ tu hành trong những năm cuối đời, Khai trấn Cửu Lộc Hầu Mạc Cửu đã cho xây dựng chùa Tam Bảo sau khi Thái Thái phu nhân quy y với Hòa thượng Ấn Hạ thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Tu hành được một thời gian, Thái Thái phu nhân tọa hóa trước Phật Đài. Mạc Cửu cho đúc kim thân của mẹ để thờ, đúc một Đại hồng chung để cúng và nghe tiếng chuông mà tưởng niệm mẹ hiền. Năm 1735, Mạc Cửu qua đời, con ông là Mạc Thiên Tứ (hay Mạc Thiên Tích) thay cha làm Đô đốc Tổng binh. Nổi tiếng là một người có tài làm thơ. Mạc Thiên Tích sáng tác 10 bài thơ Nôm lấy tựa chung là “Hà Tiên thập cảnh ngâm khúc” là mười bài vịnh 10 cảnh đẹp Hà Tiên, trong đó có bài “Tiêu tự thần chung” (Tiếng chuông sáng sớm ngân vang ở cảnh chùa tịch mịch) : Rừng thiền xít xát án ngoài tào Chuông gióng chùa Tiêu tiếng tiếng cao Chà thỏ bạt vang muôn khóm sóng Oai kình tan tác mấy cung sao Não phiền kẻ nấu sôi như vạc Trí huệ người mài sắc tựa đao Mở mịt gẫm dường say mới tỉnh Phù sanh trong một giấc chiêm bao Đời trụ trì đầu tiên của chùa Tam Bảo là Hòa thượng Ấn Hạ cũng là vị Hòa thượng khai nguyên cho Phật giáo xứ Hà Tiên. Đến nay, chùa Tam Bảo đã trải qua 19 đời trụ trì là những vị chân tăng như Hòa thượng Hòa Quang, Thiền sư Nhất Đới, Thiền sư Trí Tàng, Thiền sư Hoằng Ân, Thiền sư Hải Huệ, Thiền sư Giác Ngạn, Thiền sư Như Đức, Thiền sư Như Khả, Thiền sư Phước Chơn, Hòa thượng Thuần Hạnh, Yết ma Phước Thành, Hòa thượng Phước Ân (1920 - 1946), Hòa thượng Phước Quang, Hòa thượng Quảng Đức, Hòa thượng Vĩnh Đạt, Hòa thượng Chánh Định, Thượng tọa Thiện Giác (1960 - 1974) và  từ năm 1974 đến nay là Ni sư Thích Nữ Như Hải (thế danh Huỳnh Thị Phước). Sinh năm 1944 tại xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, mẹ mất sớm, cha đi làm ăn xa, thủa nhỏ sống trong tình thương của ngoại và dì , năm 15 tuổi, Ni sư xuất gia tại Quan Âm tu viện vừa tu học vừa dạy trẻ từ lớp 1 đến lớp 5. Năm 1962, Ni sư được Bổn sư đưa đến Diệu Ấn ni tự tại thị xã Phan Rang tu học và sau đó, tiếp tục học thế pháp tại trường Bồ Đề Phan Rang. Đến năm 1963, Ni sư lại được đưa về tu học tại chùa Dược Sư suốt trong 11 năm vừa học thế pháp, vừa học Phật học. Năm 1974, Ni sư được Hòa thượng Thích Huyền Vi và Hòa thượng Thích Thanh Từ cử về trụ trì chùa Sắc Tứ Tam Bảo Hà Tiên cho đến nay. Hiện nay, Ni sư Như Hải là Phó trưởng ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Kiên Giang, Đại biểu HĐND, Ủy viên Chữ Thập Đỏ và Ủy viên MTTQ của thị xã Hà Tiên. Từ ngày thành lập đến nay, chùa Tam Bảo đã được nhiều lần trùng tu lớn và nhỏ. Hai lần trùng tu được xem là lớn nhất là trong thời gian trụ trì của Hòa thượng Phước Ân (1920 - 1946) và trong thời gian trụ trì của Ni sư Như Hải từ 1974. Trong lần trùng tu lớn thứ 1, Hòa thượng Hồng Ân đã cho xây dựng lại chùa Tam Bảo với dáng vẻ khang trang uy nghiêm như ngày nay và cho trồng một số cây sao đến nay đã trở thành cổ thụ. Lần thứ 2, sau khi được cử về trụ trì chùa Tam Bảo, Ni sư Như Hải đã bắt đầu cho kiến tạo và trùng tu một số công trình như An vị Đức Quán Thế Âm Bồ Tát lộ thiên cao 5 m, nặng 7 tấn (1974), Lợp lại mái ngói Chánh điện và Nhà Tổ (1979), An vị tôn tượng Thiên Thủ Thiên Nhản (1987), An vị Đức Bổn sư Thích Ca ngồi dưới cội Bồ đề (1983), xây dựng cổng Tam quan, phục chế bức tường đã sụp đổ và chỉnh trang cảnh quan xung quanh chùa (1992).
Phạm Hoài NhânPhạm Hoài Nhân
Chùa tọa lạc ở số 75 đường Phương Thành, phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Chùa có khuôn viên rộng khoảng 2,5 ha. Mặt tiền chùa hướng phía Đông. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Thống binh Mạc Cửu cho dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Sách Gia Định thành thông chí cho biết, thân mẫu của ông Thống binh là Thái Thái phu nhân đã được ông phụng dưỡng ở chùa này, sau bà hóa trước bàn thờ. Ông Mạc Cửu đã chôn cất mẹ ở núi Bình San, đúc tượng Phật A Di Đà bằng đồng thờ ở chùa. Sách Lược sử những ngôi chùa ở Kiên Giang (TT. Thích Giác Phước chủ biên, NXB. TP. Hồ Chí Minh, 2002) cho biết chùa thành lập năm 1730, vị trụ trì đầu tiên của chùa là Hòa thượng Ấn Hạ, cũng là Hòa thượng khai nguyên Phật giáo xứ Hà Tiên. Hòa thượng thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Chùa đã trải qua 19 đời trụ trì: Hòa thượng Hòa Quang, Thiền sư Nhất Đới, Thiền sư Trí Tàng, Thiền sư Hoằng Ân, Thiền sư Hải Huệ, Thiền sư Giác Ngạn, Thiền sư Như Đức, Thiền sư Như Khả, Thiền sư Phước Chơn, Hòa thượng Thuần Hạnh, Yết Ma Phước Thành, Hòa thượng Phước Ân, Hòa thượng Phước Quang, Hòa thượng Quảng Đức, Hòa thượng Vĩnh Đạt, Hòa thượng Chánh Định, Thượng tọa Thiện Giác (1960 – 1974) và từ năm 1974 đến nay là Ni sư Thích Nữ Như Hải (thế danh Huỳnh Thị Phước), Phó Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Kiên Giang. Ngôi chùa xưa đã hỏng, chỉ còn dấu vết ở các bức tường thành. Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc chùa hiện nay do Hòa thượng Phước Ân, dòng Lâm Tế đời thứ 40 cho xây vào năm 1930 và cho trồng một số cây sao. Ni sư Thích nữ Như Hải đã tổ chức trùng tu và kiến tạo một số công trình như: An vị tượng Bồ tát Quan Âm lộ thiên cao 5m, nặng 7 tấn năm 1974 ở vườn cây trước chùa, trùng tu chánh điện và nhà Tổ năm 1979, an vị tượng Thiên Thủ Thiên nhãn năm 1987 sau điện Phật, an vị tượng đức Phật Thích Ca tọa thiền dưới cội bồ đề năm 1983 ở sân trước chùa, xây dựng cổng tam quan, phục chế bức tường đã sụp đổ năm 1992, an vị đài Di Lặc năm 2000 ở sân giữa chùa, an vị tượng Di Mẫu và 6 vị Tỳ kheo ni năm 2003 ở sân trước chùa. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Vị trí cao nhất thờ tượng Di Đà Tam Tôn. Pho tượng đức Phật A Di Đà bằng đồng, cao 1,40m, do ông Mạc Cửu cúng, được tôn trí ở giữa, hai bên đặt tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí. Kế tiếp có tượng đức Phật Thích Ca thành đạo, đức Phật Thích Ca khuyến thiện, tượng Thích Ca đản sanh và tượng đức Phật nhập Niết bàn. Đối diện bàn thờ Phật, có bàn thờ tượng Bồ tát Phổ Hiền, Hộ Pháp, Bồ tát Địa Tạng và Tiêu Diện. Chùa có thành lập Gia đình Phật tử từ năm 1985 và tổ chức Đạo tràng Huệ Giải, thọ Bát quan trai mỗi tháng. Ở sân trước chùa còn có phòng phát hành kinh sách, tranh tượng Phật giáo đa dạng, phong phú. Sắc tứ Tam Bảo là ngôi chùa cổ danh tiếng trong thắng cảnh Hà Tiên. Chùa đã đón tiếp hằng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái hằng năm. (Võ văn Tường - Chùa Việt Nam Xưa và Nay)
Trường ĐỗTrường Đỗ
Chùa Tam Bảo tọa lạc trên một khu đất rộng gần 4.000m² ở đường Sư Thiền Ân, TP.Rạch Giá (Kiên Giang). Chùa có lối kiến trúc tổng thể độc đáo, bố cục gọn gàng, kết hợp hài hòa các chất liệu gạch, gỗ, đá. Đây là nơi được vua Gia Long ban sắc phong, cũng là nơi hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Rạch Giá trước năm 1945. Nơi đây ra đời của “Tạp chí Tiến hoá” một trong những tờ báo tiên phong của phong trào cách mạng Việt Nam. Chùa còn là một trong những nơi sản xuất và cất dấu vũ khí cho cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ. Trong quá trình hoạt động cách mạng tại đây đã ghi nhận những tấm gương khí tiết sáng ngời của những chiến sỹ cộng sản mặc áo cà sa, góp phần viết nên truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường của Đảng bộ và nhân dân Kiên Giang thời kỳ tiền khởi nghĩa. Chùa vẫn còn giữ được nét kiến trúc cổ và đã được Nhà nước công nhận di tích lịch sử cấp Quốc Gia. Truyền thuyết chùa Tam Bảo Tương truyền : Khi quân Tây Sơn đánh vào Gia Định , Nguyễn Anh sống sót dẫn một toán quân đi lánh nạn ở vùng biển Hòn Tre (huyện Kiên Hải). Trong lúc quân lính đói khát thì Bà Hoặng (tức Dương Thị Can) là người phụ nữ không có chồng con, nhưng là người giàu có ở trên đảo đã tiếp ứng cho chúa Nguyễn một ghe chở đầy gạo, muối và tơ tằm để quan quân họ Nguyễn qua cơn nguy khốn. Khi Nguyễn Anh lên ngôi Hoàng đế, đã cho người đi tìm Bà Hoặng ở Hòn Tre để báo ơn. Lúc này Bà đã vào đất liền, dựng một ngôi chùa nhỏ mái tranh vách đất vào năm 1802 ở Rạch Giá thờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Quá trình tu, bà Hoặng luôn hướng về “tam bảo” mà theo bà đó là công đức quan trọng nhất của mọi nhà tu, cho nên bà đặt tên chùa là Tam Bảo. Tam Bảo chính là ba ngôi báu: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo: Phật bảo là người giác ngộ không đam mê dục vọng thấp hèn, không tham lam trục lợi, không si mê mọi sự cám dỗ của vật chất, từ đó là có lòng vị tha, bao dung cao cả, mọi sự cám dỗ không làm lay chuyển được mình. Đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Pháp Bảo là những lời dạy của đức Phật cho chư tăng được thể hiện ra trong kinh, luật và luận. Trong đó Phật đã tổng hợp mọi điều mà các tu sỹ phải làm theo. Tăng Bảo là một đoàn thể tăng già hoà hợp từ bốn vị trở lên, đi theo con đường chân lý của Phật, là những vị sư đứng giữa Phật và chúng sinh. Sau khi bà Hoặng qua đời, Vua Gia Long (1802 – 1820) đã sắc phong cho ngôi chùa của bà là “Sắc Tứ Tam Bảo Tự”. Trong đó chữ “Sắc” : nghĩa là lệnh của Vua ban cho thần dân, đó là một loại giấy tờ cao nhất của triều đình do Vua ký và đóng dấu. Chữ “Tứ” : nghĩa là ban cho. Chữ “Tam Bảo” là ba ngôi báu: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo. Chữ “Tự” có nghĩa là chùa. Rất tiếc là tấm sắc phong này đã bị mất trong thời kỳ bị giặc Pháp bố ráp những năm 30-40 của thế kỷ trước. Sắc phong của chùa trước đây là một loại văn bản bằng chữ nho có ấn tín của nhà vua viết trên nền giấy in nổi hoa văn rồng phượng màu vàng (kích thước khoảng 0,5 x1,2 m).
See more posts
See more posts
hotel
Find your stay

Pet-friendly Hotels in Ha Tien City

Find a cozy hotel nearby and make it a full experience.

Chùa Tam Bảo - Ngôi sắc tứ tại đất Hà Tiên Theo sách Mạc Thị Gia Phả, sau khi triều đình nhà Thanh được thành lập tại Trung Hoa, một vị quan trung thành với nhà Minh là Mạc Cửu đã rời bỏ quê hương trôi dạt xuống vùng Đông Nam Á. Năm 1695, ông thần Phục vua Chân Lạp và xin được đến làm ăn tại Mang Khảm. Đến năm 1714, Mạc Cửu xin sát nhập Mang Khảm vào xứ Đàng Trong. Chúa Hiển tông Nguyễn Phúc Chu đồng ý phong cho Mạc Cửu chức Tổng binh, sau phong Cửu Lộc hầu. Vùng Mang Khảm được đổi thành trấn Hà Tiên. Một thời gian sau, thân mẫu của Ngài Mạc Cửu là Thái Thái phu nhân cũng được đưa đến đây. Để có nơi chốn cho mẹ tu hành trong những năm cuối đời, Khai trấn Cửu Lộc Hầu Mạc Cửu đã cho xây dựng chùa Tam Bảo sau khi Thái Thái phu nhân quy y với Hòa thượng Ấn Hạ thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Tu hành được một thời gian, Thái Thái phu nhân tọa hóa trước Phật Đài. Mạc Cửu cho đúc kim thân của mẹ để thờ, đúc một Đại hồng chung để cúng và nghe tiếng chuông mà tưởng niệm mẹ hiền. Năm 1735, Mạc Cửu qua đời, con ông là Mạc Thiên Tứ (hay Mạc Thiên Tích) thay cha làm Đô đốc Tổng binh. Nổi tiếng là một người có tài làm thơ. Mạc Thiên Tích sáng tác 10 bài thơ Nôm lấy tựa chung là “Hà Tiên thập cảnh ngâm khúc” là mười bài vịnh 10 cảnh đẹp Hà Tiên, trong đó có bài “Tiêu tự thần chung” (Tiếng chuông sáng sớm ngân vang ở cảnh chùa tịch mịch) : Rừng thiền xít xát án ngoài tào Chuông gióng chùa Tiêu tiếng tiếng cao Chà thỏ bạt vang muôn khóm sóng Oai kình tan tác mấy cung sao Não phiền kẻ nấu sôi như vạc Trí huệ người mài sắc tựa đao Mở mịt gẫm dường say mới tỉnh Phù sanh trong một giấc chiêm bao Đời trụ trì đầu tiên của chùa Tam Bảo là Hòa thượng Ấn Hạ cũng là vị Hòa thượng khai nguyên cho Phật giáo xứ Hà Tiên. Đến nay, chùa Tam Bảo đã trải qua 19 đời trụ trì là những vị chân tăng như Hòa thượng Hòa Quang, Thiền sư Nhất Đới, Thiền sư Trí Tàng, Thiền sư Hoằng Ân, Thiền sư Hải Huệ, Thiền sư Giác Ngạn, Thiền sư Như Đức, Thiền sư Như Khả, Thiền sư Phước Chơn, Hòa thượng Thuần Hạnh, Yết ma Phước Thành, Hòa thượng Phước Ân (1920 - 1946), Hòa thượng Phước Quang, Hòa thượng Quảng Đức, Hòa thượng Vĩnh Đạt, Hòa thượng Chánh Định, Thượng tọa Thiện Giác (1960 - 1974) và  từ năm 1974 đến nay là Ni sư Thích Nữ Như Hải (thế danh Huỳnh Thị Phước). Sinh năm 1944 tại xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, mẹ mất sớm, cha đi làm ăn xa, thủa nhỏ sống trong tình thương của ngoại và dì , năm 15 tuổi, Ni sư xuất gia tại Quan Âm tu viện vừa tu học vừa dạy trẻ từ lớp 1 đến lớp 5. Năm 1962, Ni sư được Bổn sư đưa đến Diệu Ấn ni tự tại thị xã Phan Rang tu học và sau đó, tiếp tục học thế pháp tại trường Bồ Đề Phan Rang. Đến năm 1963, Ni sư lại được đưa về tu học tại chùa Dược Sư suốt trong 11 năm vừa học thế pháp, vừa học Phật học. Năm 1974, Ni sư được Hòa thượng Thích Huyền Vi và Hòa thượng Thích Thanh Từ cử về trụ trì chùa Sắc Tứ Tam Bảo Hà Tiên cho đến nay. Hiện nay, Ni sư Như Hải là Phó trưởng ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Kiên Giang, Đại biểu HĐND, Ủy viên Chữ Thập Đỏ và Ủy viên MTTQ của thị xã Hà Tiên. Từ ngày thành lập đến nay, chùa Tam Bảo đã được nhiều lần trùng tu lớn và nhỏ. Hai lần trùng tu được xem là lớn nhất là trong thời gian trụ trì của Hòa thượng Phước Ân (1920 - 1946) và trong thời gian trụ trì của Ni sư Như Hải từ 1974. Trong lần trùng tu lớn thứ 1, Hòa thượng Hồng Ân đã cho xây dựng lại chùa Tam Bảo với dáng vẻ khang trang uy nghiêm như ngày nay và cho trồng một số cây sao đến nay đã trở thành cổ thụ. Lần thứ 2, sau khi được cử về trụ trì chùa Tam Bảo, Ni sư Như Hải đã bắt đầu cho kiến tạo và trùng tu một số công trình như An vị Đức Quán Thế Âm Bồ Tát lộ thiên cao 5 m, nặng 7 tấn (1974), Lợp lại mái ngói Chánh điện và Nhà Tổ (1979), An vị tôn tượng Thiên Thủ Thiên Nhản (1987), An vị Đức Bổn sư Thích Ca ngồi dưới cội Bồ đề (1983), xây dựng cổng Tam quan, phục chế bức tường đã sụp đổ và chỉnh trang cảnh quan xung quanh chùa (1992).
Ngọc Thảo Bách

Ngọc Thảo Bách

hotel
Find your stay

Affordable Hotels in Ha Tien City

Find a cozy hotel nearby and make it a full experience.

Get the Appoverlay
Get the AppOne tap to find yournext favorite spots!
Chùa tọa lạc ở số 75 đường Phương Thành, phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Chùa có khuôn viên rộng khoảng 2,5 ha. Mặt tiền chùa hướng phía Đông. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Thống binh Mạc Cửu cho dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Sách Gia Định thành thông chí cho biết, thân mẫu của ông Thống binh là Thái Thái phu nhân đã được ông phụng dưỡng ở chùa này, sau bà hóa trước bàn thờ. Ông Mạc Cửu đã chôn cất mẹ ở núi Bình San, đúc tượng Phật A Di Đà bằng đồng thờ ở chùa. Sách Lược sử những ngôi chùa ở Kiên Giang (TT. Thích Giác Phước chủ biên, NXB. TP. Hồ Chí Minh, 2002) cho biết chùa thành lập năm 1730, vị trụ trì đầu tiên của chùa là Hòa thượng Ấn Hạ, cũng là Hòa thượng khai nguyên Phật giáo xứ Hà Tiên. Hòa thượng thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Chùa đã trải qua 19 đời trụ trì: Hòa thượng Hòa Quang, Thiền sư Nhất Đới, Thiền sư Trí Tàng, Thiền sư Hoằng Ân, Thiền sư Hải Huệ, Thiền sư Giác Ngạn, Thiền sư Như Đức, Thiền sư Như Khả, Thiền sư Phước Chơn, Hòa thượng Thuần Hạnh, Yết Ma Phước Thành, Hòa thượng Phước Ân, Hòa thượng Phước Quang, Hòa thượng Quảng Đức, Hòa thượng Vĩnh Đạt, Hòa thượng Chánh Định, Thượng tọa Thiện Giác (1960 – 1974) và từ năm 1974 đến nay là Ni sư Thích Nữ Như Hải (thế danh Huỳnh Thị Phước), Phó Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Kiên Giang. Ngôi chùa xưa đã hỏng, chỉ còn dấu vết ở các bức tường thành. Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc chùa hiện nay do Hòa thượng Phước Ân, dòng Lâm Tế đời thứ 40 cho xây vào năm 1930 và cho trồng một số cây sao. Ni sư Thích nữ Như Hải đã tổ chức trùng tu và kiến tạo một số công trình như: An vị tượng Bồ tát Quan Âm lộ thiên cao 5m, nặng 7 tấn năm 1974 ở vườn cây trước chùa, trùng tu chánh điện và nhà Tổ năm 1979, an vị tượng Thiên Thủ Thiên nhãn năm 1987 sau điện Phật, an vị tượng đức Phật Thích Ca tọa thiền dưới cội bồ đề năm 1983 ở sân trước chùa, xây dựng cổng tam quan, phục chế bức tường đã sụp đổ năm 1992, an vị đài Di Lặc năm 2000 ở sân giữa chùa, an vị tượng Di Mẫu và 6 vị Tỳ kheo ni năm 2003 ở sân trước chùa. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Vị trí cao nhất thờ tượng Di Đà Tam Tôn. Pho tượng đức Phật A Di Đà bằng đồng, cao 1,40m, do ông Mạc Cửu cúng, được tôn trí ở giữa, hai bên đặt tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí. Kế tiếp có tượng đức Phật Thích Ca thành đạo, đức Phật Thích Ca khuyến thiện, tượng Thích Ca đản sanh và tượng đức Phật nhập Niết bàn. Đối diện bàn thờ Phật, có bàn thờ tượng Bồ tát Phổ Hiền, Hộ Pháp, Bồ tát Địa Tạng và Tiêu Diện. Chùa có thành lập Gia đình Phật tử từ năm 1985 và tổ chức Đạo tràng Huệ Giải, thọ Bát quan trai mỗi tháng. Ở sân trước chùa còn có phòng phát hành kinh sách, tranh tượng Phật giáo đa dạng, phong phú. Sắc tứ Tam Bảo là ngôi chùa cổ danh tiếng trong thắng cảnh Hà Tiên. Chùa đã đón tiếp hằng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái hằng năm. (Võ văn Tường - Chùa Việt Nam Xưa và Nay)
Phạm Hoài Nhân

Phạm Hoài Nhân

hotel
Find your stay

The Coolest Hotels You Haven't Heard Of (Yet)

Find a cozy hotel nearby and make it a full experience.

hotel
Find your stay

Trending Stays Worth the Hype in Ha Tien City

Find a cozy hotel nearby and make it a full experience.

Chùa Tam Bảo tọa lạc trên một khu đất rộng gần 4.000m² ở đường Sư Thiền Ân, TP.Rạch Giá (Kiên Giang). Chùa có lối kiến trúc tổng thể độc đáo, bố cục gọn gàng, kết hợp hài hòa các chất liệu gạch, gỗ, đá. Đây là nơi được vua Gia Long ban sắc phong, cũng là nơi hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Rạch Giá trước năm 1945. Nơi đây ra đời của “Tạp chí Tiến hoá” một trong những tờ báo tiên phong của phong trào cách mạng Việt Nam. Chùa còn là một trong những nơi sản xuất và cất dấu vũ khí cho cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ. Trong quá trình hoạt động cách mạng tại đây đã ghi nhận những tấm gương khí tiết sáng ngời của những chiến sỹ cộng sản mặc áo cà sa, góp phần viết nên truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường của Đảng bộ và nhân dân Kiên Giang thời kỳ tiền khởi nghĩa. Chùa vẫn còn giữ được nét kiến trúc cổ và đã được Nhà nước công nhận di tích lịch sử cấp Quốc Gia. Truyền thuyết chùa Tam Bảo Tương truyền : Khi quân Tây Sơn đánh vào Gia Định , Nguyễn Anh sống sót dẫn một toán quân đi lánh nạn ở vùng biển Hòn Tre (huyện Kiên Hải). Trong lúc quân lính đói khát thì Bà Hoặng (tức Dương Thị Can) là người phụ nữ không có chồng con, nhưng là người giàu có ở trên đảo đã tiếp ứng cho chúa Nguyễn một ghe chở đầy gạo, muối và tơ tằm để quan quân họ Nguyễn qua cơn nguy khốn. Khi Nguyễn Anh lên ngôi Hoàng đế, đã cho người đi tìm Bà Hoặng ở Hòn Tre để báo ơn. Lúc này Bà đã vào đất liền, dựng một ngôi chùa nhỏ mái tranh vách đất vào năm 1802 ở Rạch Giá thờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Quá trình tu, bà Hoặng luôn hướng về “tam bảo” mà theo bà đó là công đức quan trọng nhất của mọi nhà tu, cho nên bà đặt tên chùa là Tam Bảo. Tam Bảo chính là ba ngôi báu: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo: Phật bảo là người giác ngộ không đam mê dục vọng thấp hèn, không tham lam trục lợi, không si mê mọi sự cám dỗ của vật chất, từ đó là có lòng vị tha, bao dung cao cả, mọi sự cám dỗ không làm lay chuyển được mình. Đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Pháp Bảo là những lời dạy của đức Phật cho chư tăng được thể hiện ra trong kinh, luật và luận. Trong đó Phật đã tổng hợp mọi điều mà các tu sỹ phải làm theo. Tăng Bảo là một đoàn thể tăng già hoà hợp từ bốn vị trở lên, đi theo con đường chân lý của Phật, là những vị sư đứng giữa Phật và chúng sinh. Sau khi bà Hoặng qua đời, Vua Gia Long (1802 – 1820) đã sắc phong cho ngôi chùa của bà là “Sắc Tứ Tam Bảo Tự”. Trong đó chữ “Sắc” : nghĩa là lệnh của Vua ban cho thần dân, đó là một loại giấy tờ cao nhất của triều đình do Vua ký và đóng dấu. Chữ “Tứ” : nghĩa là ban cho. Chữ “Tam Bảo” là ba ngôi báu: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo. Chữ “Tự” có nghĩa là chùa. Rất tiếc là tấm sắc phong này đã bị mất trong thời kỳ bị giặc Pháp bố ráp những năm 30-40 của thế kỷ trước. Sắc phong của chùa trước đây là một loại văn bản bằng chữ nho có ấn tín của nhà vua viết trên nền giấy in nổi hoa văn rồng phượng màu vàng (kích thước khoảng 0,5 x1,2 m).
Trường Đỗ

Trường Đỗ

See more posts
See more posts