Đền Bà Chúa Kho nằm trên lưng chừng ngọn núi Kho, tại khu Cô Mễ, Phường Vũ Ninh, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Đây không chỉ là khu di tích lịch sử có giá trị nằm trong quần thể di tích của khu Cô Mễ (gồm: Đình - Chùa - Đền) mà còn là nơi hàng năm nhân dân khắp cả nước hành hương mang tính tín ngưỡng. Ngay sau đền thờ Bà Chúa vẫn còn một đường hầm có kết cấu hình mái vòm nằm lùi sâu trong chân núi, chỗ cao nhất của đường hầm là gần 2m, đào xuyên qua lòng núi Kho để đi ra phía sông Cầu(sông Như Nguyệt), cửa hầm phía này rất khó bị phát hiện. Các bô lão nhiều đời đều nói đường hầm do Bà Chúa Kho xây dựng. Thời xa xưa, Khi chưa có đê điều chống úng lụt cao rộng, kiên cố như bây giờ có lẽ cửa hầm cũng chính là bến cảng để tập kết và điều chuyển binh lực, vật lực đi các nơi. Đây cũng là cứ điểm quân sự lợi hại bởi tính bất ngờ, đặc biệt dễ thủ khó công. Khi đêm xuống quân đội Nhà Lý có thể bí mật tập kích quân địch đang đóng ở bờ bên kia sông Như Nguyệt sau đó xuôi dòng rút quân lên thành Thị Cầu. Phía trước đền Bà Chúa Kho là một đầm nước rất rộng bao quanh 3 mặt là núi có thể đi thuyền nhẹ vào tận chân núi Chùa hoặc xuyên ra hồ Thủy(nay đã bị bồi lấp) tiến theo hướng nam để về thành cổ Bắc Ninh(dọc theo đường tàu hỏa ngày nay). Suối Hoa xưa nằm trên con đường này; 1 mặt còn lại đi ra sông(nay bi chắn bởi con đê bằng bê tông). Trong những năm chiến tranh chống Mĩ nó là nơi đóng quân của tiểu đoàn cầu phà quân đội ta nên có thể suy ra rằng thời xưa có thể là nơi tập kết của thuỷ binh nhà Lý.
Ngôi đền có liên quan đến sự kiện Lý Thường Kiệt lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Tống năm 1076. Vào thời đó ở làng Cô Mễ, núi Kho, Cầu Gạo... vốn là những nơi đặt kho lương thực của quân Lý ở bờ nam chiến tuyến Như Nguyệt (Sông Cầu). Núi Kho, núi Dinh, Thị Cầu cũng vốn là một vị trí chiến lược có thể kiểm soát con đường từ Lạng Sơn qua sông Cầu về Thăng Long xưa.
Đền Cô Mễ thờ Bà Chúa Kho chính là nơi tưởng niệm một người phụ nữ Việt Nam đã khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia trong thời kỳ trước và sau chiến thắng Như Nguyệt.
Vào đời nhà Lý, Bà có công giúp triều đình trông coi kho lương thực tại Núi Kho (tỉnh Bắc Ninh) và đã "thác" trong cuộc kháng chiến chống quân Tống vào ngày 12 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1077).
Nhà vua thương tiếc phong cho Bà là Phúc Thần. Người dân nhớ thương Bà lập nên đền thờ tại kho lương thực cũ của triều đình ở Núi Kho và gọi Bà với một niềm tôn kính là: Bà Chúa Kho.
Bà Chúa Kho xuất thân từ một gia đình nghèo khó ở làng Quả Cảm gần đó. Sau khi lấy vua Lý, thấy ruộng đất ở đây bị hoang hoá, bà xin vua cho về làng chiêu dân lập ấp, khai khẩn ruộng hoang. Không ai biết tên bà, khi bà qua đời, nhân dân lập đền thờ để ghi lại công ơn bà là đã hết lòng chăm lo cho dân ấm no, trông coi các "lẫm thóc, lẫm tiền" của Nhà nước. Công lao của bà đã được triều đại phong kiến ghi nhận qua việc sắc phong đền thờ bà là "Chủ khố linh từ" (Đền thiêng thờ bà Chúa Kho). Ở thôn Cô Mễ còn một ngôi đình và ngôi chùa cổ. Chùa Cô Mễ có từ lâu đời. Ngày nay trong chùa còn ba pho tượng đá khá đẹp mang rõ phong cách điêu khắc thời Mạc. Chùa còn lại đến nay là kiến trúc thế kỷ XIX, làm theo kiểu chữ T chạm khắc công phu.
Đình Cô Mễ kiểu chữ nhất với năm gian, hai vì. Các mảng chạm khắc gỗ thể hiện theo các đề tài long vân khánh hội, ngũ hổ tranh châu với nghệ thuật điêu luyện. Đình thờ Trương Hống, Trương Hát là những anh hùng có công giúp Triệu Quang Phục (549-570)...
Read moreTương truyền, Bà Chúa Kho là người phụ nữ quê làng Quả Cảm, nhan sắc tuyệt trần, lại khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng Quốc gia trong và sau chiến thắng Như Nguyệt (1076) do Lý Thường Kiệt lãnh đạo. Bà còn có công chiêu dân, lập ấp ở vùng Quả Cảm, Cô Mễ, Thượng Ðồng, giúp người dân khai khẩn đất đai nông nghiệp.
Sau này Bà trở thành Hoàng hậu dưới triều Lý, giúp nhà vua trong việc kinh bang đất nước, giữ gìn kho lương. Bà bị giặc sát hại trong lúc phát lương cứu đỡ dân làng. Cảm kích tấm lòng bao dung của Bà, nhà vua đã phong Bà là Phúc Thần. Nhân dân Cô Mễ nhớ ơn và lập Đền Bà Chúa Kho tại vị trí kho lương cũ trên Núi Kho.
Đền được lập từ thời Lý, ban đầu vốn là ngôi miếu nhỏ. Vào thời Lê, được trùng tu, mở rộng thành khu Đền lớn với nhiều hạng mục công trình: cổng Tam quan, đường, sân, tòa tiền tế, cung đệ nhị, hậu cung – trung tâm thờ tự tôn nghiêm với tượng Bà chúa được tạc khắc rất công phu, tài nghệ. Trải qua thời gian và chiến tranh tàn phá, đến năm 1989, Đền Bà Chúa Kho đã được Nhà nước xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hoá cấp Quốc gia và được tỉnh Bắc Ninh trùng tu tôn tạo, mở rộng với quy mô lớn gồm nhiều hạng mục công trình kiến trúc như: Cổng Tam môn, Tiền tế, cung Đệ tam, cung Đệ nhị, cung Thượng (cung Bà Chúa), tòa Sơn Trang, Lầu Cô, Lầu Cậu, ban thờ "Cửu trùng thiên" và một số công trình phụ trợ khác. Phần lớn các hạng mục công trình được khôi phục, tôn tạo mang dáng vẻ truyền thống và làm tôn vinh giá trị của di tích.
Ngày 12 tháng Giêng hàng năm, để tưởng niệm ngày giỗ Bà Chúa Kho, dân làng Cô Mễ cùng khách thập phương thường tổ chức lễ dâng hương, sắp lễ vật cúng Bà Chúa Kho, tiến lễ các ban thờ trong khu vực Đền với trình tự là: Tiền Tế, Tứ Phủ Công Đồng, Đệ Nhị Cung, Đệ Nhất Cung (Tam tòa Thánh Mẫu); cúng Phật ở chùa làng và cúng Thánh Tam Giang ở đình. Các lễ vật có thể cúng gồm có lễ chay, lễ mặn, lễ đồ sống, cỗ Sơn Trang, hoa quả, hương oản, gương lược.
Khách thập phương đến Đền có người đến cầu an, cầu lộc, nhưng đa phần đến để “vay vốn” Bà Chúa Kho, mong cho một năm vốn liếng dồi dào, làm ăn phát đạt... Nghi thức “vay vốn” cũng rất rõ ràng, người ta ghi trong sớ là vay bao nhiêu, làm gì, và bao lâu sẽ trả. Thậm chí có người còn hứa là vay 1 trả 3, trả 10... với quan niệm đã vay thì phải trả, nên dù có làm ăn tốt hay không, người ta vẫn giữ đúng lời hứa, tức là tạ lễ cuối năm ở Đền Bà Chúa Kho.
Trong dịp đầu năm, xung quanh Đền có hàng trăm cửa hàng bán đồ cúng tế, đông đúc người vào ra. Mâm lễ được khách hành hương mua sắm tùy tâm, khi đơn giản là thẻ hương, bông hoa với vài ba tập tiền âm phủ, cầu kỳ thì con gà đĩa xôi, hay một mâm ngũ quả đủ đầy... chủ yếu là thành tâm cầu khấn. Để phục vụ quý khách về dự hội, nhân dân Cô Mễ đã tổ chức đón tiếp khách, phục vụ mọi người ngày càng chu đáo, hạn chế và từng bước đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực, mong làm hài lòng quý khách về dự hội Đền.
Mọi người tới đây, ngoài việc thành tâm dâng lễ, cầu lộc, cầu tài, còn là dịp gặp nhau, cùng nhau vãn cảnh Đền, thăm các di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng của thành phố như: Đình Cô Mễ, Thành cổ Bắc Ninh, Văn Miếu Bắc Ninh; các khu phố cổ, thưởng thức những món ăn đặc sản của...
Read moreĐánh giá về Đền Bà Chúa Kho - Bắc Ninh, Việt Nam
Đền Bà Chúa Kho, nằm tại xã Khoái Châu, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, là một trong những di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng và thu hút đông đảo du khách mỗi năm. Được xây dựng từ lâu đời, đền thờ Bà Chúa Kho, vị thần bảo trợ cho công việc làm ăn và buôn bán, đặc biệt được nhiều người biết đến với lời cầu xin sự may mắn, tài lộc.
Không gian tôn nghiêm và kiến trúc độc đáo
Khi đến Đền Bà Chúa Kho, du khách sẽ cảm nhận được một không gian tôn nghiêm, linh thiêng nhưng cũng rất gần gũi và ấm áp. Đền nằm giữa một khu rừng cây xanh mát, với không khí trong lành và cảnh vật bình yên, rất thích hợp cho những ai muốn tìm kiếm sự tĩnh lặng để hồi tâm, tịnh dưỡng.
Kiến trúc của đền là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố truyền thống và phong cách nghệ thuật dân gian Việt Nam. Ngôi đền có một sân rộng, bên trong là các tòa điện thờ uy nghi, lộng lẫy, các bức hoành phi, câu đối được chạm khắc tinh xảo. Tất cả tạo nên một không gian trang nghiêm, làm nổi bật vẻ đẹp văn hóa tâm linh đặc trưng của người Việt.
Linh thiêng và niềm tin của người dân
Là nơi thờ phụng Bà Chúa Kho, đền không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là điểm đến tâm linh thu hút đông đảo tín đồ và du khách thập phương. Hàng năm, vào những ngày đầu năm mới, đền trở thành nơi hành hương của hàng nghìn người cầu tài lộc, may mắn, thành công trong công việc và cuộc sống. Rất nhiều người đến đây để xin Bà Chúa Kho cho công việc làm ăn thuận lợi, buôn bán phát đạt.
Ngoài ra, Đền Bà Chúa Kho còn nổi bật với nghi thức cúng lễ đơn giản nhưng đầy ý nghĩa. Các tín đồ thường đến để lễ bái, cầu xin sức khỏe, tài lộc và hạnh phúc. Những phong tục truyền thống, như việc thắp nhang, thả hương, đốt vàng mã, được thực hiện nghiêm túc và thành kính, tạo nên không khí thiêng liêng trong lòng mỗi du khách.
Một điểm đến tuyệt vời cho du lịch tâm linh và tham quan
Đền Bà Chúa Kho không chỉ thu hút du khách bởi giá trị tâm linh mà còn là nơi lý tưởng để khám phá văn hóa và lịch sử của vùng đất Bắc Ninh. Vào những dịp lễ hội, du khách có thể tham gia các hoạt động truyền thống, như hội thi, đua thuyền, hay các trò chơi dân gian đặc sắc.
Ngoài việc tham quan đền, du khách còn có thể khám phá những địa điểm xung quanh, như các làng nghề truyền thống, những khu di tích lịch sử nổi tiếng khác tại Bắc Ninh. Kết hợp giữa tham quan và du lịch tâm linh, Đền Bà Chúa Kho chính là một lựa chọn tuyệt vời cho những ai muốn tìm hiểu về văn hóa, lịch sử cũng như niềm tin của người Việt.
Kết luận
Đền Bà Chúa Kho là một địa điểm du lịch tâm linh hấp dẫn, vừa có giá trị văn hóa sâu sắc, vừa mang đến cho du khách một không gian thanh tịnh, yên bình. Dù bạn đến để cầu nguyện hay đơn giản là muốn tìm hiểu về văn hóa lịch sử, đền vẫn là một điểm đến tuyệt vời không thể bỏ qua khi du lịch Bắc Ninh. Với không gian linh thiêng, cảnh quan đẹp mắt và sự đón tiếp nồng hậu của người dân địa phương, Đền Bà Chúa Kho xứng đáng là một trong những điểm du lịch nổi bật tại miền...
Read more