Ủy Nguyễn ĐìnhỦy Nguyễn Đình
Tương truyền, Bà Chúa Kho là người phụ nữ quê làng Quả Cảm, nhan sắc tuyệt trần, lại khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng Quốc gia trong và sau chiến thắng Như Nguyệt (1076) do Lý Thường Kiệt lãnh đạo. Bà còn có công chiêu dân, lập ấp ở vùng Quả Cảm, Cô Mễ, Thượng Ðồng, giúp người dân khai khẩn đất đai nông nghiệp.
Sau này Bà trở thành Hoàng hậu dưới triều Lý, giúp nhà vua trong việc kinh bang đất nước, giữ gìn kho lương. Bà bị giặc sát hại trong lúc phát lương cứu đỡ dân làng. Cảm kích tấm lòng bao dung của Bà, nhà vua đã phong Bà là Phúc Thần. Nhân dân Cô Mễ nhớ ơn và lập Đền Bà Chúa Kho tại vị trí kho lương cũ trên Núi Kho.
Đền được lập từ thời Lý, ban đầu vốn là ngôi miếu nhỏ. Vào thời Lê, được trùng tu, mở rộng thành khu Đền lớn với nhiều hạng mục công trình: cổng Tam quan, đường, sân, tòa tiền tế, cung đệ nhị, hậu cung – trung tâm thờ tự tôn nghiêm với tượng Bà chúa được tạc khắc rất công phu, tài nghệ. Trải qua thời gian và chiến tranh tàn phá, đến năm 1989, Đền Bà Chúa Kho đã được Nhà nước xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hoá cấp Quốc gia và được tỉnh Bắc Ninh trùng tu tôn tạo, mở rộng với quy mô lớn gồm nhiều hạng mục công trình kiến trúc như: Cổng Tam môn, Tiền tế, cung Đệ tam, cung Đệ nhị, cung Thượng (cung Bà Chúa), tòa Sơn Trang, Lầu Cô, Lầu Cậu, ban thờ "Cửu trùng thiên" và một số công trình phụ trợ khác. Phần lớn các hạng mục công trình được khôi phục, tôn tạo mang dáng vẻ truyền thống và làm tôn vinh giá trị của di tích.
Ngày 12 tháng Giêng hàng năm, để tưởng niệm ngày giỗ Bà Chúa Kho, dân làng Cô Mễ cùng khách thập phương thường tổ chức lễ dâng hương, sắp lễ vật cúng Bà Chúa Kho, tiến lễ các ban thờ trong khu vực Đền với trình tự là: Tiền Tế, Tứ Phủ Công Đồng, Đệ Nhị Cung, Đệ Nhất Cung (Tam tòa Thánh Mẫu); cúng Phật ở chùa làng và cúng Thánh Tam Giang ở đình. Các lễ vật có thể cúng gồm có lễ chay, lễ mặn, lễ đồ sống, cỗ Sơn Trang, hoa quả, hương oản, gương lược.
Khách thập phương đến Đền có người đến cầu an, cầu lộc, nhưng đa phần đến để “vay vốn” Bà Chúa Kho, mong cho một năm vốn liếng dồi dào, làm ăn phát đạt... Nghi thức “vay vốn” cũng rất rõ ràng, người ta ghi trong sớ là vay bao nhiêu, làm gì, và bao lâu sẽ trả. Thậm chí có người còn hứa là vay 1 trả 3, trả 10... với quan niệm đã vay thì phải trả, nên dù có làm ăn tốt hay không, người ta vẫn giữ đúng lời hứa, tức là tạ lễ cuối năm ở Đền Bà Chúa Kho.
Trong dịp đầu năm, xung quanh Đền có hàng trăm cửa hàng bán đồ cúng tế, đông đúc người vào ra. Mâm lễ được khách hành hương mua sắm tùy tâm, khi đơn giản là thẻ hương, bông hoa với vài ba tập tiền âm phủ, cầu kỳ thì con gà đĩa xôi, hay một mâm ngũ quả đủ đầy... chủ yếu là thành tâm cầu khấn. Để phục vụ quý khách về dự hội, nhân dân Cô Mễ đã tổ chức đón tiếp khách, phục vụ mọi người ngày càng chu đáo, hạn chế và từng bước đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực, mong làm hài lòng quý khách về dự hội Đền.
Mọi người tới đây, ngoài việc thành tâm dâng lễ, cầu lộc, cầu tài, còn là dịp gặp nhau, cùng nhau vãn cảnh Đền, thăm các di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng của thành phố như: Đình Cô Mễ, Thành cổ Bắc Ninh, Văn Miếu Bắc Ninh; các khu phố cổ, thưởng thức những món ăn đặc sản của người Bắc Ninh.
TonyTony
Đánh giá về Đền Bà Chúa Kho - Bắc Ninh, Việt Nam
Đền Bà Chúa Kho, nằm tại xã Khoái Châu, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, là một trong những di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng và thu hút đông đảo du khách mỗi năm. Được xây dựng từ lâu đời, đền thờ Bà Chúa Kho, vị thần bảo trợ cho công việc làm ăn và buôn bán, đặc biệt được nhiều người biết đến với lời cầu xin sự may mắn, tài lộc.
Không gian tôn nghiêm và kiến trúc độc đáo
Khi đến Đền Bà Chúa Kho, du khách sẽ cảm nhận được một không gian tôn nghiêm, linh thiêng nhưng cũng rất gần gũi và ấm áp. Đền nằm giữa một khu rừng cây xanh mát, với không khí trong lành và cảnh vật bình yên, rất thích hợp cho những ai muốn tìm kiếm sự tĩnh lặng để hồi tâm, tịnh dưỡng.
Kiến trúc của đền là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố truyền thống và phong cách nghệ thuật dân gian Việt Nam. Ngôi đền có một sân rộng, bên trong là các tòa điện thờ uy nghi, lộng lẫy, các bức hoành phi, câu đối được chạm khắc tinh xảo. Tất cả tạo nên một không gian trang nghiêm, làm nổi bật vẻ đẹp văn hóa tâm linh đặc trưng của người Việt.
Linh thiêng và niềm tin của người dân
Là nơi thờ phụng Bà Chúa Kho, đền không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là điểm đến tâm linh thu hút đông đảo tín đồ và du khách thập phương. Hàng năm, vào những ngày đầu năm mới, đền trở thành nơi hành hương của hàng nghìn người cầu tài lộc, may mắn, thành công trong công việc và cuộc sống. Rất nhiều người đến đây để xin Bà Chúa Kho cho công việc làm ăn thuận lợi, buôn bán phát đạt.
Ngoài ra, Đền Bà Chúa Kho còn nổi bật với nghi thức cúng lễ đơn giản nhưng đầy ý nghĩa. Các tín đồ thường đến để lễ bái, cầu xin sức khỏe, tài lộc và hạnh phúc. Những phong tục truyền thống, như việc thắp nhang, thả hương, đốt vàng mã, được thực hiện nghiêm túc và thành kính, tạo nên không khí thiêng liêng trong lòng mỗi du khách.
Một điểm đến tuyệt vời cho du lịch tâm linh và tham quan
Đền Bà Chúa Kho không chỉ thu hút du khách bởi giá trị tâm linh mà còn là nơi lý tưởng để khám phá văn hóa và lịch sử của vùng đất Bắc Ninh. Vào những dịp lễ hội, du khách có thể tham gia các hoạt động truyền thống, như hội thi, đua thuyền, hay các trò chơi dân gian đặc sắc.
Ngoài việc tham quan đền, du khách còn có thể khám phá những địa điểm xung quanh, như các làng nghề truyền thống, những khu di tích lịch sử nổi tiếng khác tại Bắc Ninh. Kết hợp giữa tham quan và du lịch tâm linh, Đền Bà Chúa Kho chính là một lựa chọn tuyệt vời cho những ai muốn tìm hiểu về văn hóa, lịch sử cũng như niềm tin của người Việt.
Kết luận
Đền Bà Chúa Kho là một địa điểm du lịch tâm linh hấp dẫn, vừa có giá trị văn hóa sâu sắc, vừa mang đến cho du khách một không gian thanh tịnh, yên bình. Dù bạn đến để cầu nguyện hay đơn giản là muốn tìm hiểu về văn hóa lịch sử, đền vẫn là một điểm đến tuyệt vời không thể bỏ qua khi du lịch Bắc Ninh. Với không gian linh thiêng, cảnh quan đẹp mắt và sự đón tiếp nồng hậu của người dân địa phương, Đền Bà Chúa Kho xứng đáng là một trong những điểm du lịch nổi bật tại miền Bắc Việt Nam.
Kiên KiciKiên Kici
Đền thờ Bà Chúa Kho được xây dựng từ lâu và được tôn tạo qua nhiều giai đoạn. Khảo sát thực trạng di tích cho thấy nhiều tại đền còn lưu lại dấu ấn văn hoá nhiều thời kỳ. Xung quanh ngôi đền còn rải rác những mảnh vỡ, đầu ngói mũi hài, gạch ngói cũ của thời Lê (thế kỷ XVII-XVIII).
Ông Nguyễn Thế Đoàn, người trông coi đền cho hay: “Vào giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, đền Bà Chúa Kho bị thiệt hại nặng nề. Đến những năm 1978 – 1980, nhân dân địa phương mới chung tay tu sửa lại ngôi đền để duy trì tục thờ Bà Chúa Kho theo truyền thống ở địa phương”.
Đền hiện nay sở hữu lối kiến trúc kiểu chữ nhị gồm toà Tiền tế 3 gian và Hậu cung 3 gian. Trên mái đền, bạn sẽ thấy bức đại tự với dòng chữ Hán đắp nổi: “Chúa Kho từ”, có nghĩa là “đền Bà Chúa Kho”. Hai trụ phía trước có câu đối viết bằng chữ Hán, ca ngợi công lao của công chúa Thanh Bình: “Càn long tốn thuỷ lưu thắng cảnh/ Liệt nữ cao sơn hiển linh từ” (có nghĩa là: Phía Tây Bắc có mạch nguồn, phía Đông Nam có dòng nước chảy là nơi cảnh xinh. Người nữ oanh liệt được tôn thờ ở ngôi đền linh thiêng trên đỉnh ngọn núi cao).
NHỮNG NGHI LỄ NÊN BIẾT KHI “VAY VỐN” Ở ĐỀN BÀ CHÚA KHO
Mặc dù chỉ là nghi lễ tâm linh nhưng muốn nguyện ước linh ứng thì phải thật tâm khi “vay vốn” Bà chúa Kho và giữ đúng lời hứa. Theo ban Quản lý đền, việc “vay” bao nhiêu, khi nào trả là tùy mỗi người. Nhưng có “vay” thì phải có “trả”. Dù có làm ăn lãi lời hay thua lỗ thì khi đã hứa với Bà Chúa Kho là trả thì phải giữ đúng lời hứa. Đó cũng đây là chữ “Tín” mà chúng ta cần tuân thủ trong cuộc sống hiện thực.
Việc sắm lễ của những người dân khi đến Đền tuyệt đối là tùy tâm. Lễ vật dâng lên Đền bà Chúa Kho có thể đa dạng. Tuy nhiên bạn cũng phải chú ý những điều kiêng kị. Cụ thể như sau:
DÂNG LỄ
Lễ chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… Phần lễ chay dùng để dâng ban Thánh Mẫu.
Lễ mặn: Bạn cũng có thể mua đồ chay hình tướng gà, lợn, hoặc dùng đồ mặn là thịt lợn, thịt gà,…
Lễ đồ sống: Tuyệt đối không sắp đồ lễ sống (trứng, gạo, muối, thịt). Tại những ban quan Ngũ hổ, Bạch xà, Thanh xà ở hạ ban Công Đồng Tứ Phủ.
Cỗ Sơn Trang: Bao gồm đặc sản chay Việt Nam. Lưu ý là không được sử dụng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả…
Lễ ban thờ Cô, thờ Cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa,… Ngoài ra, bạn cũng có thể sẵn sàng gương, lược, … Những đồ mã mô phỏng đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Những lễ vật này nhỏ nhắn, được làm cầu kỳ, và được gói trong những túi nhỏ xinh mắt.
Lễ thần Thành Hoàng, Thư Điền: Phải cúng đồ chay mới có phúc và những lời cầu nguyện mới được linh ứng.
HẠ LỄ
Sau khi dâng lễ và khấn ở những ban thờ. Bạn phải đợi hết một tuần nhang mới được hạ lễ. Trong khi đó, người dân có thể viếng thăm phong cảnh trong nơi thờ tự. Thắp hương xong, bạn vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi mới được hạ sớ và hóa vàng. Hoá sớ xong thì hạ lễ, từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng những đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ chứ không được đem về...
Nguyễn Nguyên ĐứcNguyễn Nguyên Đức
Đền Bà Chúa Kho - ngôi đền thờ mẫu điển hình tại Bắc Ninh.
Lễ hội Đền Bà Chúa Kho được diễn ra vào ngày 14 tháng Giêng âm lịch, để tưởng niệm ngày giỗ Bà Chúa Kho được tổ chức tại đền Bà Chúa Kho, thôn Cổ Mễ, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh (tỉnh Bắc Ninh).
Trong tín ngưỡng người Việt, hình tượng Bà Chúa Kho rất độc đáo. Bà vừa là một nhân vật huyền thoại, vừa là một nhân vật lịch sử. Việc suy tôn Bà có sự hội tụ của truyền thống sùng bái nữ thần và sự tôn vinh người anh hùng có công khai phá đất đai, gây dựng cộng đồng, hy sinh tính mạng để bảo vệ đất nước. Ở nước ta có 3 Bà Chúa Kho được phong Phúc Thần, đó là Bà Chúa Kho ở Nam Định, Bà Chúa Kho ở Giảng Võ (Hà Nội) và Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh.
Theo sử sách ghi lại, đền Bà Chúa Kho có liên quan đến sự kiện Lý Thường Kiệt lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược vào năm 1076. Theo đó, làng Cổ Mễ được chọn là nơi đặt kho quân lương của quân của nhà Lý ở bờ nam chiến tuyến sông Như Nguyệt (Sông Cầu ngày nay).
Tương truyền, Bà Chúa Kho xuất thân từ một gia đình nghèo khó ở làng Quả Cảm gần đó. Bà được miêu tả là người con gái rất đẹp. Sau khi lấy vua nhà Lý và được phong là Linh Từ Quốc Chế. Thấy ruộng đất làng Quả Cảm còn bị hoang hóa nhiều, Bà đã xin vua cho về làng chiêu dân lập ấp, khai khẩn ruộng hoang. Sau đó, mở rộng khai hoang vào đến vùng Nghệ An hiện nay.
Cũng vào khoảng thời gian này, Bà còn có công giúp triều đình trông coi kho lương thực tại Núi Kho (tỉnh Bắc Ninh). Ngày 12 tháng Giêng năm Đinh Tỵ (năm 1077), trong lúc phát lương cứu giúp dân làng Bà đã bị giặc sát hại. Nhà vua thương tiếc hạ chiếu phong Bà là Phúc Thần.
Người dân tỏ lòng biết ơn đã lập đền thờ tại kho lương thực cũ của triều đình ở Núi Kho và gọi Bà với sự tôn kính là Bà Chúa Kho.
Từ thời Pháp thuộc, đền Bà Chúa Kho đã có nhiều thương nhân ở Hà Nội, Hải Phòng và các vùng lân cận đã tìm về đây để khấn lễ và chiêm bái. Ngôi đền ngày đó còn rất nhỏ. Đầu thế kỷ XX, người Pháp đã cho xây dựng tại núi Kho nhà máy giấy Đông Dương.
Đây là nhà máy rất lớn, bao trùm gần như toàn bộ quả núi. Khi ấy, người Pháp đã có ý định phá bỏ ngôi đền nhưng họ gặp phải sự phản đối quyết liệt của người dân địa phương.
Vào năm 1967 khi giặc Mỹ bắn phá miền Bắc, thành phố Bắc Ninh cũng là một trong những trọng điểm bị địch dội bom tàn phá. Điều kỳ lạ là mặc dù máy bay địch dội bom xuống làng Cổ Mễ, san bằng nhiều điểm ở thành phố Bắc Ninh, cày xới núi Kho nhưng không có quả bom nào rơi vào đền.
Năm 1989, đền Bà Chúa Kho đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và được tỉnh Bắc Ninh trùng tu tôn tạo, mở rộng với quy mô lớn.
Hằng năm, mặc dù ngày 14 tháng Giêng mới là ngày chính của Lễ hội, nhưng từ nhiều năm nay ngay từ những ngày đầu xuân và kéo dài trong cả tháng Giêng, dòng người đã đổ về đền Bà Chúa Kho rất đông.
Sưu tầm và chia sẻ bởi: Nguyễn Nguyên Đức (19.12.2017)
Lượng Thiên Xích (Lượng Thiên Xích)Lượng Thiên Xích (Lượng Thiên Xích)
Cho đến nay, không ai biết được bà Chúa Kho tên thật là gì, cũng chẳng rõ bà sinh năm nào. Thần tích lưu truyền cũng như các nhà làm sử thời xưa đã ghi lại rằng, bà sinh vào thời nhà Lý tại phủ Thiên Đức (Bắc Ninh), là người làng Quả Cảm, phía nam sông Như Nguyệt (ngày nay gọi là sông Cầu).
Cũng theo Thần tích thì gia cảnh của bà vốn cũng tầm thường, gốc gác nông phu, gia cảnh nghèo khó. Sau vì cơ duyên nào đó mà bà được thành Hoàng hậu dưới triều nhà Lý, được phong là Linh Từ Quốc Chế. Thời đó đất đai khắp nơi hoang hóa, cư dân không quần tụ, việc nông tang chẳng được thịnh hưng. Bà xin với vua Lý về quê khai khẩn đất đai, mở làng lập xã, cải tạo đất hoang thành đồng, phân bờ chia ô để làm ruộng. Dân cư dần một nhiều thêm, mà việc đồng áng cũng dần vượng ra nữa. Nhờ công trạng của bà mà hình thành nên cả một vùng dân cư phồn vinh, trải dài vào tận vùng Châu Hoan (Nghệ An và Hà Tĩnh), góp phần cho dân sinh quốc kế của Đại Việt trở lên thịnh đạt. Người khắp nơi ghi ơn bà lắm vậy.
Rồi đến ngày giặc dã nổi lên, quân nghịch nhà Tống tràn sang cướp phá, thế giặc rất mạnh, ước chừng khoảng mười vạn đại quân, do Quách Quỳ lãnh đạo. Quân và dân Đại Việt do ông Lý Thường Kiệt thống lĩnh, chia làm hai phòng tuyến chống bọn giặc nghịch. Tuyến đầu thì chống giặc ở ngay biên giới, do các thủ lĩnh người đồng bào thiểu số chỉ huy, tuyến sau thì ở phía nam sông Như Nguyệt. Lại phân ra thành hai đạo quân. thủy quân sẽ do tướng Lý Kế Nguyên lãnh đạo, còn lục quân thì do ông Lý Thường Kiệt trực tiếp điều động. Vùng đất phủ Thiên Đức, cụ thể là bờ nam sông Như Nguyệt mà bà Linh Từ Quốc Chế khai khẩn trở thành chiến trường trọng yếu thủ giữ Thăng Long.
Nhờ sự tháo vát và khéo tổ chức sản xuất nên bà được giao trông nom kho tàng lương thực quốc gia, phục vụ hậu cần cho tuyến đầu chống giặc. Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng, góp phần tạo nên chiến thắng sông Như Nguyệt vang danh thiên hạ. Bởi lẽ lương thảo là thứ tiên quyết để yên lòng quân sĩ. Nơi đây vốn đã được bà Linh Từ Quốc Chế kiến thiết thành trù phú, sản vật đầy đồng, thóc lúa tràn kho. Cho nên khi thiết lập phòng tuyến chống giặc ở đây, việc đảm bảo quân lương và kho tàng cũng có nhiều thuận lợi vậy.
Khi cuộc chiến với giặc Tống gần đến thời kỳ kết thúc, bà Linh Từ Quốc Chế đã bị giặc giết hại trong lần phát lương. Vua Lý xót xa, hạ chỉ sắc phong cho bà là Phúc Thần. Dân chúng tiếc thương người liệt nữ nên đã lập đền thờ tự ngay tại lưng chừng núi, là kho lương của bà trước kia, Thần hiệu là Chưởng Quản Quốc Khố Công Chúa, hương lửa tứ thời cúng tế, chẳng lúc nào gián đoạn. Sau, ngôi đền lại được gia phong là Chủ Khố Linh Từ. Cái tên “Bà Chúa Kho” được hình thành từ đấy, và núi đó cũng được gọi là núi Kho vậy.