Trong tín ngưỡng thờ hệ thống các vị Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt, hiện vẫn có lễ hội tôn thờ Đức Thánh Quan đệ ngũ Tuần Tranh. Họ tên của Vị thánh này dần được sáng tỏ nhiều năm qua một số giá hầu đồng riêng biệt, khác nhau cả về địa điểm cũng như địa phương. Đã có những phương pháp đối chiếu đủ để chứng minh rằng không có sự liên hệ giữa các Thanh Đồng khi được Thánh giáng cho biết tên của Ngài là Cao Lỗ – Đây là một nhân vật lịch sử đã được ghi trong Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngoại kỷ quyển I – Kỷ Nhà Thục như sau:” Vua ( An Dương Vương) sai bề tôi là Cao Lỗ (Có bản chép là Cao Thông) làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy nỏ, đặt tên là Linh quang kim trảo thần nỏ”.
Theo các chứng cứ này, đối chiếu thư tịch thì Cao Lỗ (Chưa rõ họ và năm sinh – mất 179 trước Công nguyên, có một số thư tịch cổ lại ghi tên ông là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Thần Đô Lỗ Thạch Thần) là một Đại thần – Danh Tướng của Thục Phán An Dương Vương. Ông sinh ra tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
Ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô tại nơi xưa là đất kinh đô nhà nước Việt Thường, và Cao Lỗ là người được An Dương Vương giao cho xây thành Cổ Loa.
Vào thời Hùng Vương thứ 18, Cao Lỗ là một vị Đại Tướng kỳ tài của nước Văn Lang độc lập, ông được giao hợp nhất quân với Tây Âu Lạc của Thục Phán để Cao Lỗ thống lĩnh chống 50 vạn quân Nhà Tần do Đồ Thư cầm đầu tiến quân vượt sông Dương Tử về phía nam xâm lược Bách Việt. Sau khi đã chiếm hết vùng Ngô Việt, Mân Việt, . . . Quân Tần tiến vào vùng đất của người Lạc Việt. Người Lạc Việt rút vào giữ nơi hiểm yếu cầm cự với quân Tần. Lâu ngày, quân Tần hết lương, người Việt ra đánh giết mấy chục vạn quân Tần cùng Đồ Thư. Nhà Tần phải rút chạy về nước ( Hoài nam Tử, Sử ký, sách đã dẫn).
Đây là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm lần thứ nhất của người Việt được sách sử và thư tịch, truyền thuyết, tín ngưỡng dân gian cả Việt nam và Trung quốc đều có ghi chép.
Vì có công lớn nên ông được giao chức vụ đứng đầu trong Triều đình. Ông đem lòng yêu công chúa Mị Châu – con gái An Dương Vương Thục Phán, nhưng Mị Châu lại phải lòng Trọng Thủy là con Triệu Đà được nhiều lần đi sứ cầu hòa đến An Dương Vương. Thấy quân lực Âu Lạc hùng mạnh, biết không thể đánh bại bằng quân sự, Triệu Đà dùng mưu đưa con Trọng Thủy lấy công chúa Mị Nương để tìm bí mật về tổ chức quân sự và quy cách vũ khí nỏ liên châu. Cao Lỗ can ngăn An Dương Vương không cho Mị Châu lấy Trọng Thủy, vì thế An Dương Vương bắt đầu nghi ngờ Cao Lỗ, nên vẫn cho đồng ý kết thông gia với Triệu Đà mà tin rằng sự hòa hiếu để tránh được chiến tranh xâm lược của Nam Việt ( Sách đầu tiên ghi việc Trọng Thủy lừa Mị châu là sách Giao châu ngoại vực ký do Thủy Kinh chú đã dẫn quyển 14). Sau đó Trọng Thủy trở về Nam Việt trình lên vua Nam Việt Vương Triệu Đà tất cả bí mật về quốc phòng của Âu Lạc.
Quân Triệu Đà tấn công, nhưng không giành ngay được thắng lợi tuyệt đối. Nỏ liên châu cũng không còn phát huy tác dụng như trước vì quân Triệu Đà đã có cách chống lại. An Dương Vương cho rằng Cao Lỗ đã để lộ bí mật quân sự, lại thêm một số quyền thần vốn ghen ghét sàm tấu thêm khép ông vào tội chém. Nhưng vì ông có công lớn, trong án có những sự không sáng tỏ bởi vậy nên Triều đình chỉ bãi hết chức đầy Cao Lỗ lên vùng biên ải (nay là tỉnh Lạng Sơn).
Do bị oan ức không thể giãi bầy được, lại thêm tính cương trực không chịu khuất, khi đến nơi đi đầy, quân áp giải vừa mở gông cùm, Cao Lỗ đã thề lấy cái chết để rõ mình vô tội và nhẩy xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn.
Sau khi ông chết, dân Việt nhớ ghi công đức lập đền thờ ông tại nơi ông tuẫn tiết ở bên sông Kỳ Cùng và tại nơi ông hiển linh là bến Tranh xã Ninh Giang, huyện Vĩnh...
Read moreQuan Lớn Tuần Tranh còn gọi là Đệ Ngũ Tuần Tranh hoặc Ông Lớn Tuần Tranh là vị Quan lớn đứng hàng thứ năm trong hàng Ngũ vị Tôn Quan (sau hàng Tam Tòa Thánh Mẫu) cũng cuối cùng xếp sau Quan lớn Đệ Tứ Khâm Sai. Ngài là vị tướng tài ba danh tiếng lẫy lừng, nắm quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh được nhân dân nhất mực tôn kính phụng thờ.
Sự tích cho rằng Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh là con trai thứ năm của Vua Bát Hải Động Đình, ngài giáng dưới thời vua Hùng Định Vương trong Hùng Triều Thập Bát, vào một gia đình ở tại phủ Ninh Giang (Hải Dương). Ngài cũng là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Tại nơi đây ngài đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong công hầu. Tại quê nhà, ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp, người thiếu nữ ấy vốn là vợ lẽ của quan huyện ở đó, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh “chồng chung”, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng. Vậy nên Quan Lớn Tuần Tranh vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan huyện kia biết chuyện, vu oan cho ông đã quyến rũ vợ mình. Quan Tuần Tranh bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, ông đã tự sát mong rửa oan, chứng tỏ mình vô tội, ông hoá xuống dòng sông Kì Cùng.
Về lại nơi quê nhà, ông hiện thành đôi bạch xà, thử lòng ông bà nông lão, sau đó được ông bà nông dân nuôi nấng như thể con mình. Nhưng khi quan phủ biết chuyện ông bà nông lão tậu gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và giết chết đôi rắn kia đi. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội. Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại...
Read moreĐền Kỳ Cùng (còn gọi đền Quan Lớn Tuần Tranh) nằm ngay đầu cầu bên tả ngạn sông Kỳ Cùng, thuộc phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Theo tư liệu địa phương, đền Kỳ Cùng đã có từ rất lâu nhưng sử sách không ghi rõ năm xây dựng, chỉ biết ban đầu là một ngôi đền nhỏ dựng bằng đất lợp ngói, thờ thần Giao Long (vị thần sông nước) cai quản toàn vùng, phù hộ cho mưa thuận gió hòa. Sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn chép về đền Kỳ Cùng như sau : ở bên tả sông Kỳ Cùng thuộc xã Vĩnh Trại, châu Thoát Lãng, có con giao long thành thần đào hang ở đây, đền rất thiêng, nhiều lần được phong tặng. Khi sứ bộ qua đây, trước sửa lễ cáo yết, sau mới sang đò.
Về sau, việc thờ thần Giao Long được thay bằng thờ quan Tuần Tranh, bởi trong tâm thức người dân xứ Lạng, sự tích đền Kỳ Cùng gắn với truyền thuyết rằng: quan Tuần Tranh là con vua Bát Hải Động đình, giáng trần dưới thời Hùng Định Vương. Ông được nhà Trần cử lên trấn thủ Lạng Sơn, chỉ huy đánh giặc nhưng bị thua, quân lính thiệt mạng nhiều, ông lại bị vu cáo về tội dâm ô nên đã nhảy xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn để chứng minh trong sạch.
Cảm thấu nỗi oan và tấm lòng của quan Tuần Tranh, thần linh đã hóa phép linh hồn ông thành hai vị thần là ông Cộc - ông Dài ngự tại Đền Kỳ Cùng để cai quản sông nước. Nỗi oan của quan Tuần Tranh về sau cũng đã được tả đô đốc Thân Công Tài (vị tướng nhà Lê) hóa giải trong sạch.
Tướng Thân Công Tài là một nhân vật lịch sử có công lao lớn với nhân dân Lạng Sơn nói riêng, và là một danh nhân lịch sử văn hóa tiêu biểu của dân tộc ở thời nửa sau thế kỷ 17. Sau khi ông mất, nhân dân địa phương đã lập Đền Tả Phủ để thờ tự, tưởng nhớ công ơn.
Đến năm 1993, đền Kỳ Cùng đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa...
Read more