Chùa Vạn Bảo được xây dựng từ rất lâu đời trên núi Vạn Bảo, một ngọn núi thấp ở kinh thành Thăng Long vào thời Lý Trần. Kết quả khai quật khảo cổ học sau chùa đã tìm thấy nhiều di vật thời Lý, Trần. Đến năm Gia Long thứ 2 (1803, dân làng Vạn Phúc đã hợp nhất chùa núi Voi và chùa Vạn Bảo để xây dựng nên ngôi chùa. Vì chùa có “ngọn tháp để hình bát” nên được đặt tên là chùa Bát Tháp. Chùa Bát Tháp nằm trên một khu đất cao theo hướng Nam, có một khuôn viên rộng rãi, thoáng đạt. Tam quan của chùa khá đồ sộ, xây hai tầng tám mái với lối vào được tạo dựng theo hai dạng thức khác nhau. Cửa chính có bề mặt hình chữ nhật, phần dưới mở vòm cửa lớn trông thẳng vào Tiền đường. Tầng trên mở nhiều cửa nhỏ trông ra bốn phía. Hai bên cửa được xây giống nhau trên trổ những cửa tròn “sắc - không” theo giáo lý đạo Phật. Tiền đường có quy mô lớn gồm có 7 gian, 2 dĩ, hàng hiên trước khá rộng do mái chảy dài. Ngoài hiên là hệ thống cột đá hình hộp chữ nhật được mài nhẵn, trên đá khắc những vế câu đối ca ngợi công đức nhà Phật và cảnh đẹp của chùa cùng những trang trí hình long, ly, quy, phượng. Sau chùa là nhà thờ Tổ và khu vườn rộng.
Về nội thất, các bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu “thượng chồng rường, giá chiêng, hạ kẻ”. Ở đây, các con rường được chạm nổi hình lá ba chẽ, nét chạm sâu và nổi khối tạo cảm giác khoẻ, vững chãi cho kiến trúc. Trên những bức cốn, hình rồng cuốn thuỷ, rồng ổ, hổ phù cùng cây cỏ… được thể hiện với hình thức chạm nổi, phần nào đã làm giảm bớt vẻ khô cứng của khối kiến trúc gỗ.
Hệ thống tượng tròn trong di tích gồm hai loại khác nhau: tượng Phật và tượng Mẫu, được làm bằng chất liệu gỗ và đồng. Niên đại tạo tác cũng không đồng nhất, một số ít ra đời vào cuối thời Lê, còn đa phần là những tác phẩm thuộc thời Nguyễn.
Hậu cung gồm 3 gian, được làm theo kiểu “chồng rường, giá chiêng”. Trên các xà thượng và hạ đều treo hệ thống y môn, cửa võng, hoành phi… góp phần cho ngôi chùa thêm vẻ lộng lẫy.
Kiến trúc chùa Bát Tháp đã tạo ra các hình khối chắc khoẻ, gây được cảm giác mạnh mẽ đối với con người. Bên cạnh đó là những đầu đao cong vút cùng các đề tài trang trí điểm xuyết lại tạo nên sự nhẹ nhàng, bay bổng cho kiến trúc. Bố cục chung của toàn bộ ngôi chùa cũng rất chặt chẽ, gắn kết và tôn đẩy lẫn nhau. Số lượng tượng tròn ở đây tuy không nhiều, kích thước vừa phải, nhưng có giá trị thẩm mỹ cao. Là những pho tượng mang ý nghĩa tôn giáo, nghĩa là phải tuân theo những quy định ngặt nghèo của lý thuyết cổ xưa, song bằng sức lao động sáng tạo, nghệ nhân xưa đã tạo nên nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị theo dòng điêu khắc dân gian truyền thống.
Trong chùa còn giữ gìn được khá nhiều di vật có giá trị như: đôi hạc đồng, bát hương, chuông đồng “Bát Tháp tự chung” đúc năm Gia Long thứ 2 (1803)… góp phần làm cho di tích thêm sống động, phong phú.
Chùa Bát Tháp đã được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia...
Read moreGiới thiệu Chùa Bát Tháp (phố Đội Cấn, Hà Nội)
Chùa Bát Tháp, còn gọi là chùa Vạn Bảo, tọa lạc tại số 209 phố Đội Cấn, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội. Đây là một trong những ngôi chùa cổ kính của Thủ đô, mang đậm dấu ấn lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Phật giáo truyền thống.
Lịch sử hình thành
Chùa Bát Tháp được xây dựng trên ngọn núi Vạn Bảo, một ngọn núi thấp ở kinh thành Thăng Long vào thời Lý - Trần. Năm 1803, dưới triều Gia Long, chùa được hợp nhất từ chùa trên núi Voi và chùa Vạn Bảo thành chùa Bát Tháp. Tên gọi "Bát Tháp" được giải thích là do chùa có "ngọn tháp đế hình bát" .
Kiến trúc và nghệ thuật
Chùa Bát Tháp là một di tích thuộc loại hình kiến trúc Phật giáo, nằm trên một khu đất cao theo hướng nam. Kiến trúc chùa gồm:
Tam quan: Xây hai tầng tám mái, với lối vào được tạo dựng theo hai dạng thức khác nhau. Cửa chính có bề mặt hình chữ nhật, phần dưới mở vòm cửa lớn trông thẳng vào Tiền đường. Tầng trên mở nhiều cửa nhỏ trông ra bốn phía. Hai bên cửa được xây giống nhau trên trổ những cửa tròn “sắc - không” theo giáo lý đạo Phật .
Tòa Tam bảo: Nằm trên vị trí cao nhất của ngọn Vạn Bảo Sơn, có mặt bằng hình chuôi vồ, gồm tiền đường 7 gian, 2 dĩ và hậu cung 3 gian.
Nhà tổ và khu vườn phía sau: Tạo nên một không gian thanh tịnh, hài hòa với thiên nhiên.
Chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như chuông đồng đúc năm Gia Long thứ 2 (1803), tượng Phật và tượng Mẫu bằng gỗ và đồng, phần lớn thuộc thời Nguyễn. Đặc biệt, bộ tượng Tam Thế với ba pho tượng tương đối giống nhau cả về kích thước và hình thức thể hiện, mang nhiều nét dân gian với cụm tóc kết hình ốc theo hàng ngang, mặt tượng có tính khái quát tượng trưng với đôi mắt khép hờ, sống mũi thẳng, nhân trung sâu. Tai tượng lớn, ngực nở và trên thân phủ áo hai lớp với những nếp chảy mềm mại, mang tính nghệ thuật cao .
Giá trị văn hóa và tâm linh
Chùa Bát Tháp không chỉ là nơi tu hành và thờ tự mà còn là di tích kiến trúc nghệ thuật bề thế, hài hòa và có những vẻ đẹp ít thấy trong các di tích tôn giáo ở Hà Nội cũng như cả nước. Năm 1989, chùa được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là "Di tích kiến trúc...
Read moreNhắc đến An Vinh, Quỳnh Phụ, Thái Bình chắc hẳn nhiều người ở đây không biết nhưng với biết bao nhiêu người con sinh ra ở vùng đất Quỳnh Phụ anh hùng hẳn không thể không biết đến " Chè Xanh " An Vinh. Một loại chè ở đồng bằng nhưng có hương vị và mùi thơm mà không miền quê nào có. Song song với chè xanh là Chợ Rét nơi có mái đình làng Cổ Tiết cổ kính qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử. Nơi có giò chả ông Lượng nức tiếng từ bao đời nay. Tôi nhớ những buổi sáng sớm ngày mới chập chững đi học. Sáng sớm 5h ngồi trên giỏ xe " Cà Tàng" của mẹ lên chợ để xem bố mẹ làm giò với Ông Ngoại. Những tiếng giã giò cối đá với những chiếc chày to bằng bắp chân người lớn, kèm theo những tiếng cười nói của các ông, các bác. Lớn lên tý nữa khi mà không còn ai thích ngồi giã giò nữa thì lại là tiếng máy nổ vang cả góc chợ quê khi mỗi lần bố tôi đóng dây " Curoa" và cho thịt vào cối. Ôi những ngày đó vui biết mấy khi mấy anh em ngồi chực cối giò ra khuôn xong rồi tranh nhau vào vét cối. Một tý giò thôi nhưng gói vào lá chuối nhúng vào nồi luộc giò ăn nóng hôi hổi lúc còn thơm mùi lá nó ngon biết mấy. Rồi nhìn bác ngồi quay chả nướng ống tre rồi xem những cây giò " Lây " ( một số nơi gọi là giò mỡ, giò cuốn bì "dài ngoằng được cuộn nhìn rất đẹp mắt, chứ không xù xì như của bố tôi làm thật đầm ấm biết mấy. Tuổi thơ của tôi là những bát phở ngày hè do mẹ nấu và những ngày đông thơm nức mùi giò. Những mâm thịt mông bốc khói nghi ngút của lợn mớt thịt, rồi những phên thịt " Phê " loại thịt mà đảm bảo 100% người Hà Nội không biết để làm lên loại giò mà thoạt nhìn thì sợ mỡ không giám ăn nhưng chén 1 miếng là nghiện ngay được này. Tôi không nghiện ăn giò nhưng ăn bì lợn được ninh ở nhiệt độ vừa đủ sôi trong 3 tiếng đồng hồ, được ép chặt cho chảy hết nước mỡ thừa ra và được ướp gừng tiêu, muối trắng và được gói bởi 5 lớp lá chuối bánh tẻ thơm lừng thì là điều mà đến 1 thằng sợ mỡ như tôi cũng không thể cưỡng lại được.Và thật sự là không có loại giò nào không hóa chất, không chất bảo quản mà lại để được lâu mà thơm ngon đến vậy. Ôi hương vị ngày tết quê tôi sao mà nồng...
Read more