hùa tọa lạc tại số 63 phố Bằng Liệt, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Xưa kia dưới thời Hậu Lê thuộc xã Bình Liệt, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam. Về niên đại xây dựng từ thuở ban đầu do thất lạc tài liệu sử sách nên chưa xác định được chính xác.
Căn cứ theo “Tu tạo Linh Tiên tự bi ký” khắc tháng 11 năm Đinh Tỵ niên hiệu Hoằng Định thứ 18 (năm 1617), chùa được trùng tu do Thiền sư Huệ Nguyên - Nguyễn Văn Tông chủ trì. Theo văn bia Linh Tiên tự ký, chùa được trùng tu lớn nhất vào năm 1654 do Thiền sư Tự Huệ Quảng (thế danh Lê Khả Đắc, người xã Ba Lăng, huyện Thượng Phúc) chủ trì với sự phát bồ-đề tâm dâng cúng tiền của gia đình ông bà Ngô Vĩnh Đăng tự Chân Sinh, Lưu Thị Lý hiệu Diệu Minh xây toà tiền đường, thiêu hương, thượng điện và các công trình khác.
Chùa Bằng - Linh Tiên tự, Hà Nội ảnh 1 Nhà thờ Tổ - Ảnh: Diệu Tường
Chùa Linh Tiên hiện lưu giữ được một số công trình kiến trúc nghệ thuật như toà Tam bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, Khu Tháp Tổ, bia đá, chuông đồng, thống đá.
Toà thượng điện là công trình chính của chùa (thượng điện hay chính điện thờ Tam bảo). Trong quá trình trùng tu đã phát hiện cách xây dựng độc đáo của tiền nhân với hệ thống “móng treo” rất đặc biệt, bên trong lòng móng có hàng trăm viên gạch “vồ” của thế kỷ 15, 16 .Tuy năm 1945 có trùng tu lại sau khi bị chiến tranh nhưng đó chỉ thay phần mái gỗ lợp ngói thành bê tông còn hệ thống tường móng giữ nguyên của đợt đại trùng tu theo bia “Linh Tiên tự ký” (tạo năm 1654). Hiện nay rất ít công trình kiến trúc đình đền chùa miếu còn loại gạch móng như ở chùa này.
Nhà thờ Tổ được tạo dựng bằng gỗ lim. Ngôi nhà này cũng giữ được vẻ độc đáo còn lại ở Việt Nam với hệ thống 6 hàng cột.
Tấm bia “Linh Tiên tự ký” được khắc ngày 13 tháng 2 năm Giáp Ngọ niên hiệu Thịnh Đức thứ 2 Triều Lê Thần Tông (năm 1654) do pháp sư Tự Ngọc Bảo, người huyện Tiên Du - Bắc Ninh soạn với bút tích của Hoà thượng Pháp Ấn quê làng Phù Lãng, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. Nội dung ghi công đức của ông,bà Ngô Vĩnh Đăng, Lưu Thị Lý phát tâm làm chùa.
Thống đá dùng ngâm gạo làm oản cúng Phật. Trên thân thống được khắc chữ “Tâm” to, dưới viết các bài kệ dạy đệ tử tỏ ngộ tâm tông của Phật tổ do Thiền sư Bất Trược Thủy - Tự Như Liên soạn, đặc biệt là bài:
“Dũng trung tịnh thuỷ nguyệt ảnh tiềm
Nhân nhân bả trốc bất hội nguyên
Nhược nhân ngộ đắc chân như tính
Thượng kiến Như Lai phúc tuệ viên”
Tạm dịch:
Trong thống nước thanh tịnh, trăng chìm
Cội nguồn chẳng biết đi tìm uổng công
Chân như ai ngộ tính không
Vê tròn phúc tuệ nối dòng Như Lai.
Trên thống ghi niên đại tạo tác vào mùa Hạ niện hiệu Bảo Thái thứ 4 triều vua Lê Dụ Tông (Quý Mão - 1723) do người xã Phù Ủng, huyện Đường Hào - Hồng Phủ (Hải Dương) cúng.
Hai tấm bia đá tạo dựng năm Long Đức thứ 3 - Giáp Dần (1734) ghi lại cộng đức của thiền sư Tự Tính Tuyên trụ trì chùa Bằng Liệt và Quang Ân (Thanh Liệt) đã phát tâm xây dựng cầu đá Quang Bình để nhân dân thuận tiện qua lại (Cầu bê tông phía trước chùa hiện nay là hậu thân của cầu đá Quang Bình khi xưa).Tấm bia này hiện đang bảo quản tại chùa Long Quang – xã Thanh Liệt - huyện Thanh Trì.
Đại hồng chung (chuông chiêu mộ): được đúc tháng 6 niên hiệu Minh Mệnh thứ 18 triều Nguyễn - Đinh Dậu (1837). Đây là quả chuông (đương thời) to nhất vùng được nhân dân ca ngợi qua câu: “chuông Bằng, trống Lủ, mõ Đình Công, cồng làng Sét”, trên chuông ghi công đức của các hội và tín chủ cúng dàng dưới sự chủ trì của thiền sư Phổ Siêu.
Tấm bia khắc ngày 13 tháng 12 năm Quý Tỵ (1954) ghi lại đợt trùng tu toà chính điện do tỉnh trưởng Hà Đông Nguyễn Văn Thanh chủ lễ đặt viên đá đầu tiên.
Vườn chùa hiện còn 6 ngôi tháp thờ chư vị tổ sư và các sư giác linh, trong đó có những ngôi tháp cổ: Linh Quang thờ Thiền Sư Tính Tuyên; Tháp Từ Quang thờ thiền sư Chiếu Sửu - Trí Điển.
Chùa Bằng - Linh Tiên tự, Hà Nội ảnh 2 Vườn tháp chư Tổ sư - Ảnh: Diệu Tường
Chùa Linh Tiên cũng như nhiều chùa khác, do chịu ảnh hưởng của chiến tranh và những thăng trầm lịch sử nên thế hệ trụ trì cũng gián đoạn, chuyển đổi sơn môn.Tạm sắp xếp thế hệ trụ...
Read more“Kho sử liệu” quý
Theo sách Tây Hồ chí, chùa Tảo Sách (hay Tào Sách, Linh Sơn tự) nguyên là am thờ hoàng tử Uy Linh Lang, con trai thứ bảy của vua Trần Nhân Tông (1258 - 1308). Thuở nhỏ, hoàng tử sống với mẹ là Chiêu Minh phu nhân ở phường Nhật Chiêu (nay là phường Nhật Tân), ngày ngày đọc sách, luyện văn, rèn võ tại đây. Năm 1285, khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ 3, hoàng tử Uy Linh Lang xin vua cho ra trận, dẹp giặc cứu nước. Thắng trận trở về, được vua ban thưởng hậu hĩnh nhưng hoàng tử không nhận mà lui về tu thiền. Vua bèn phong hoàng tử là Dâm Đàm Đại vương. Ngôi nhà trước kia của hai mẹ con được nhà vua dựng thảo am để ghi nhớ dấu tích. Sau này, trên nền thảo am cô tịch, người dân đã xây dựng chùa Tảo Sách, có nghĩa là “đọc sách dưới ánh ban mai”. Vào khoảng thế kỷ XVI, thiền sư Thủy Nguyệt - vị sư tổ đầu tiên của phái Tào Động đã truyền thụ đệ tử trụ trì tại các chùa quanh hồ Tây, trong đó có chùa Tảo Sách.
Hiện nay, trong chùa còn tấm bia Bảo Đại Tân Tỵ (1927) có ghi rõ: “Hà Đông tỉnh, Hoàn Long huyện, Thượng tổng, Nhật Tân xã, Tào Sách tự - Tự Tiền Lê chi sử kiến lập”. Như vậy, có thể khẳng định chùa Tảo Sách được xây dựng thời Tiền Lê. Chùa cũng đã trải qua nhiều lần trùng tu. Dấu tích của những lần trùng tu này còn được lưu lại trên 24 tấm bia đá, từ năm Cảnh Hưng 1 (1740) đến Bảo Đại 2 (1927).
Ngoài ra, chùa Tảo Sách còn lưu giữ khối lượng di vật khá phong phú, đa dạng, gồm: 1 pho tượng đá thế kỷ XIX, 13 pho tượng tròn thế kỷ XVIII - XIX, 3 bức hoành phi kiểu cuốn thư trang trí rồng chầu và tứ quý, 5 bức hoành phi sơn son thếp vàng, 1 bức cửa võng thếp vàng trang trí rồng chầu và tứ linh... Ngoài ra còn có các đồ sứ men lam, 2 quả chuông, trong đó một quả có kích thước lớn niên hiệu Minh Mệnh thứ 3 (1822) cùng 42 câu đối chữ Hán và chữ Nôm khắc trên tường... Những hiện vật này chính là “kho di sản tư liệu” có giá trị, góp phần khẳng định bề dày lịch sử - văn hóa của chùa Tảo Sách.
Không chỉ sở hữu khối lượng đồ sộ các di vật, hiện vật quý, chùa Tảo Sách còn là một công trình tâm linh có kiến trúc độc đáo. Được xây dựng trên dải đất cao hơn mặt hồ 3m, ở thế “long chầu hổ phục”, chùa nhìn ra hồ Tây mênh mông sóng nước, ẩn mình dưới những tán cổ thụ hàng trăm tuổi.
Từ ngoài nhìn vào, chùa Tảo Sách gồm các công trình: Cổng tam quan, tòa Tam bảo, đài bia kỷ niệm, nhà Mẫu, nhà Thờ Tổ... Tòa Tam bảo quay ra hướng hồ Tây, kết cấu theo kiểu chữ “Đinh”, gồm tiền đường và hậu cung. Tòa tiền đường là nếp nhà 5 gian mặt bằng 6 hàng chân. Vì kèo kết cấu kiểu “giá chiêng - kẻ chuyền bảy hiên”. Hiên hè lát gạch Bát Tràng, có 4 cột đá xanh đỡ mái hiên được chạm khắc trang trí đề tài tứ quý và những câu thơ tả cảnh chùa. Hậu cung Tam bảo là tòa nhà 3 gian chạy thẳng về phía sau, nối liền với gian giữa tiền đường.
Nhà được xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Đặc biệt, tường hồi phía sau tạo thêm mảng tường cong võng thành từng lớp, dưới đường cong đan xen hàng ngói âm dương xếp lệch nhau, phần giao phía dưới chia hai lớp, đắp hình rồng cách điệu. Đây là phần kiến trúc đan xen, có những nét tương tự giống kiến trúc cổ của Hội An.
Tuy nhiên, vào năm 2011, tòa Tam bảo của chùa bất ngờ bị cháy rụi hoàn toàn. Sau đó một thời gian ngắn, sư trụ trì cùng các Phật tử đã gom công góp của, phục dựng công trình theo lối kiến trúc cũ. Ngoài ra, trong chùa còn có đài kỷ niệm được xây kiểu chồng diêm, hai tầng ô mái. Chính giữa ngôi nhà đặt tấm bia kỷ niệm niên hiệu Bảo Đại và tấm bia “Linh Sơn tự kỷ niệm bi ký” được bảo quản khá tốt, các nét chữ vẫn còn khá rõ ràng, ghi lại lịch sử hình thành của chùa Tảo Sách.
Địa chỉ tâm linh, hướng thiện
Tông phái Tào Động du nhập vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ XVI. Cùng với các chùa thuộc tông phái Tào Động như: Hồng Phúc (Hòe Nhai), Hàm Long, Trấn Quốc..., chùa Tảo Sách là một trong những điểm đến tâm linh của nhiều người dân Hà Nội, là nơi người ta tìm lại sự thanh tịnh trong tâm hồn và gửi...
Read moreChùa Tảo Sách còn gọi là Tào Sách, tên chữ Linh Sơn Tự, có từ thế kỷ 16, ở số 386 Lạc Long Quân, phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội.
Theo sách “Tây Hồ chí” và “Thăng Long cổ tích khảo”, chùa có nguồn gốc liên quan đến hoàng tử Uy Linh Lang, con trai thứ 7 của vua Trần Nhân Tông (trị vì 1279—1293). Thuở nhỏ, hoàng tử sống với mẹ là Chiêu Minh phu nhân ở phường Nhật Chiêu (nay là phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội). Nhiều lần, hoàng tử xin xuất gia đầu Phật nhưng không được cha mẹ chấp thuận. Hoàng tử lập một nhà nhỏ ven hồ làm nơi đọc sách, cùng bạn bè rèn văn, luyện võ, du thuyền thưởng trăng, ngâm vịnh thi phú, xa lánh chính sự. Khi Chiêu Minh phu nhân mất, nhà vua cho lập đền thờ, gọi là “Chiêu thánh điện”.
Năm 1285, khi nhà Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ 3, hoàng tử Linh Lang dựng cờ, chiêu mộ dân binh, xin vua cho xuất chinh dẹp giặc và đã lập được nhiều chiến công. Thắng trận trở về, hoàng tử không nhận ban thưởng mà lui về tu thiền ở chùa Vân Hồ. Vua luận công, phong là Dâm Đàm Đại Vương. Khi Đại Vương mất, nhân dân rước bài vị vào Chiêu thánh điện, thờ làm Chính thần hoàng cùng 6 người bạn của ngài. Còn trên nền nhà đọc sách ven hồ, dân làng dựng một thảo am để ghi nhớ dấu tích hoạt động của hoàng tử Uy Linh Lang.
Đầu đời Hậu Lê, dân sở tại đã dựng trên nền am thờ Uy Linh Lang một ngôi chùa, gọi là Tảo Sách. Gần cuối thế kỷ 16, sư Thủy Nguyệt hiệu Tông Giác du học Trung Hoa trở về đã quảng bá thiền phái Tào Ðộng và truyền thụ đệ tử trụ trì các chùa quanh hồ Tây. Chùa Tảo Sách sau trở thành một cơ sở sinh hoạt của hội Hoa Nghiêm, lấy kinh Hoa Nghiêm làm tôn chỉ, mục đích là siêu độ cho thân nhân của những người trong hội.
Chùa còn được gọi là Tào Sách và mang tên chữ Linh Sơn tự[1]. Từ xa xưa “Linh Sơn đạo” đã du nhập vào nước ta, mang đặc điểm hội tụ Tam giáo (Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo), được nhiều vua chúa tôn sùng. Sáng 01/09/2013, Đạo tràng Tịnh độ Linh Sơn chùa Tảo Sách đã làm lễ ra mắt tại chùa. Hiện nay các buổi lễ phóng sinh của đạo tràng Linh Sơn chùa Tảo Sách được tổ chức định kì vào ngày mùng 1 âm lịch hàng tháng.
Sáng ngày 27/1/2011, toàn bộ diện tích 150m2 của toà Tam Bảo bất ngờ bị hỏa hoạn thiêu trụi. Rất may là nhiều tượng thờ đã kịp thời được di chuyển ra ngoài. Không lâu sau đó, Thượng tọa trụ trì Thích Nguyên Hạnh đã cùng Phật tử thập phương quyên góp công đức phục dựng lại theo kiến trúc cũ.
Cổng chính của chùa Tảo Sách là một tam quan 2 tầng 8 mái đứng uy nghi trên đường Lạc Long Quân, bên phải có bảng đá đề tên di tích đã xếp hạng. Do việc thành phố cho xây kè và làm đường ven Hồ Tây, nhiều nhà dân ở đó đã được tu sửa, xoay hướng hoặc mở thêm cổng. Chùa Tảo Sách đã trùng tu, tôn tạo các công trình như Chính điện, nhà Tổ, Trai phòng, nhà Mẫu v.v. và xây một tháp chuông nhìn ra Hồ Tây, bên cạnh lại làm cổng sắt cho ô-tô ra vào.
Du khách đi ven hồ từ xa đã có thể nhìn thấy tháp chuông mới xây với 3 tầng 12 mái cao sừng sững, như một phương đình cửa mở về hướng đông-nam đón gió. Sau cổng là giả sơn ở giữa một sân rộng trước toà Tam bảo có kết cấu kiểu chuôi vồ truyền thống. Chếch bên trái tiền đường có dựng một tượng đài bằng đá trắng tạc Quán Thế Âm Bồ Tát đứng lộ thiên trên tòa sen; tay phải hướng lên trời bắt quyết, tay trái dốc bình tưới nước Cam Lồ.
Có hai đôi câu đối cổ viết ở trụ biểu trước chùa, phiên âm như sau:
“Tào Sách thanh phong thiên cổ danh lam quang hữu vĩnh / Tây Hồ minh nguyệt tứ thời cảnh chí ánh vô biên”
Tạm dịch:
Gió mát Tào Sách, danh lam nghìn xưa sáng tươi mãi mãi / Trăng chiếu Hồ Tây, cảnh sắc bốn mùa toả ánh mênh mông
“Tú thủy kỳ sơn Tào Sách trường lưu thiên cổ tích / Xuân đài thọ vực thiền lâm biệt chiếm nhất hồ thiên”
Tạm dịch:
Sông gấm núi thiêng, Tào Sách mãi lưu trang cổ tích / Đài xuân vực thọ, rừng thiền riêng chiếm...
Read more