Nghĩa An Hội quán (Miếu Quan Đế), tức chùa Ông, tọa lạc tại số 678 đường Nguyễn Trãi, phường 11, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Miếu vốn là hội quán của bang Triều Châu, do người Triều Châu và người Hẹ ở Triều Châu sang Việt Nam sinh sống thành lập. Không rõ miếu được xây dựng năm nào, có lẽ muộn nhất là đầu thế kỷ XIX, vì khoảng năm 1818, khi viết về chợ Sài Gòn xưa trong sách "Gia Định thành thống chí", Trịnh Hoài Đức đã nhắc đến hội quán Triều Châu: "Đầu phía Bắc đường lớn có miếu Quan Thánh và ba hội quán Phúc Châu, Quảng Đông và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu... Hễ gặp tiết đẹp đêm trăng, các ngày tam nguyên, sóc vọng thì treo đèn, đặt án, đua tranh kỳ xảo...". Văn bia chạm trên vách miếu cho biết miếu đã được trùng tu lớn 4 lần vào các năm 1866, 1901, 1966 và lần trùng tu mới nhất là vào năm 1984. Như phần lớn các đền miếu của người Hoa, miếu có kiến trúc tổng thể hình chữ "quốc". Sân miếu khá rộng, gần hai ngàn mét vuông, chiếm hơn phân nửa diện tích khuôn viên. Phần còn lại gồm tiền điện, sân thiên tỉnh, nhà hương, chính điện và văn phòng hội quán dọc hai bên các điện thờ. Kiến trúc và trang trí ở miếu thể hiện rõ nét phong cách Trung Hoa qua thiết kế, qua các tượng, phù điêu bằng gốm trên mái ngói hay các bông hoa chạm ngược, tượng kỳ lân, diềm gỗ... trên bộ vì kèo sơn màu đỏ thắm...Mái chia gồm 3 cấp: cấp mái chính cao ở giữa, 2 cấp mái phụ thấp hơn ở 2 bên. Ngói lợp mái màu xanh lục. Từ hai cổng lớn vào đến cửa miếu có năm cặp kỳ lân lớn nhỏ bằng đá đặt đối xứng nhau. Đẹp hơn cả có lẽ là cặp "lân hàm châu" (lân ngậm ngọc) chầu hai bên cửa. Phía trên, trước biển chữ "Nghĩa An hội quán" treo bức nghi môn làm năm 1903 chạm nổi cảnh "Lục Quốc phong tướng". Trên vách mặt tiền hai bên cửa miếu chạm chìm các chữ Hán và sáu bức chạm cành trúc khác nhau, là những tác phẩm chạm khắc đá giá trị. Nội thất miếu trang nghiêm với những cột gỗ cao treo câu đối, những bao lam cửa chạm hai mặt, bao lam khám thờ, khám thờ... chạm trổ tinh tế từ những điển tích Trung Hoa đến những sinh hoạt đời thường như: gánh nước, đốn củi..., những con vật trong tứ linh xen lẫn tôm, cua, cá, mực... Chính điện miếu, giữa có gian thờ Quan Thánh đế quân trang trí bao lam lưỡng long tranh châu. Tượng Quan Đế cao 300cm, mặc áo gấm xanh, ngồi trên ngai, đặt trong khám thờ chạm viền nhiều lớp tùng - hạc, mai - điểu, mẫu đơn - trĩ, Bát tiên giao chiến thủy quái... Đứng hầu hai bên trước bệ thờ là tượng Quan Bình và Châu Xương cao gần 200cm, đặt trong tủ kính. Hai bên tả hữu có gian thờ Thiên Hậu nguyên quân và Tài Bạch tinh quân (Thần Tài) bài trí giống nhau với bao lam phụng hoàng và khám thờ chạm cảnh vinh qui bái tổ, đánh cờ, chèo thuyền, giăng lưới, mục đồng cưỡi trâu, mai điểu, trúc điểu... Tượng Bà Thiên Hậu bằng gỗ cao 60cm, ngồi trên ghế chạm, theo hầu Bà có hai thị nữ và hai vị Thiên lý nhãn, Thuận phong nhĩ. Thần Tài được thể hiện bằng tượng gỗ, cao 60cm, cũng ngồi trên ghế chạm đầu rồng, hai bên có Chiêu Tài và đồng tử đứng hầu. Sát hai bên góc tường đặt hai bộ chuông trống đối xứng nhau. Chuông bên trái bằng gang, đúc ở Phật Trấn - Quảng Đông vào năm Canh Tuất (1850). Chuông còn lại làm bằng hợp kim, có chạm nổi hàng chữ "Gia Định tỉnh, Minh Hương xã, Tân Trường Châu, Nghĩa An hội quán..." (chuông do Tân Trường Châu cúng, được đúc trong khoảng năm 1836 đến 1867). Ngoài gian thờ ở chính điện, còn có bàn thờ Quan Đế ở trung điện, đặt trước bàn thờ Văn Xương đế quân tức Khổng Tử, người đứng đầu Nho giáo. Tượng Quan Đế cao 80cm bằng gỗ thiếp vàng, được làm cách nay hơn...
Read moreChùa Ông, còn gọi là miếu Quan Đế hay Nghĩa An Hội Quán (義安會館), là một kiến trúc tôn giáo văn hóa của của người Tiều. Trong miếu, vị thần được thờ chính là Quan Vũ, một nhân vật thời Tam Quốc. Đối với người Hoa, ông là người tài đức vẹn toàn[1]. Vì vậy, miếu có tên là miếu Quan Đế. Và vì đây cũng là nơi hội họp của người Tiều, nên còn gọi là Nghĩa An Hội Quán (Nghĩa An là tên cũ của người Tiều để chỉ Triều Châu). Tuy nhiên, ngôi thờ này thường được gọi là chùa Ông theo thói quen của nhiều người. Theo học giả Vương Hồng Sển, thì miếu Quan Đế do người Tiều xây dựng trước thế kỷ 19, nhưng đến năm 1819-1820 mới xây cất kiên cố cho đến ngày nay [3]. Vì thế, khoảng năm 1820, khi viết về chợ Sài Gòn xưa (tức Chợ Lớn ngày nay), Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí (Thành trì chí) đã nhắc đến ngôi miếu này: Đầu phía Bắc đường lớn có miếu Quan Thánh và 3 hội quán Phúc Châu, Quảng Đông và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu... Hễ gặp tiết đẹp đêm trăng, các ngày tam nguyên, sóc vọng thì treo đèn, đặt án, đua tranh kỳ xảo... Thêm nữa, trong Gia Định phú của một tác giả khuyết danh (soạn ra trước khi Lê Văn Khôi khởi binh năm 1833) cũng đã nhắc đến ngôi miếu: Chói chói bấy! chùa Ông Quan Đế, chí trung nghĩa cao xa ngàn thuở... Ngoài ra, hiện ở trong miếu có một thạch bia chữ lớn nêu rõ bà Đỗ Thị (phu nhân Tả quân Lê Văn Duyệt) cúng 200 quan tiền vào năm 1819, và một chiếc lư hương bằng đồng làm vào năm Đạo Quang thứ 5 (1825). Từ khi xây dựng kiên cố cho đến nay, miếu đã được trùng tu nhiều lần vào các năm 1866, 1901, 1969, 1984 và mới đây nhất là vào năm 2010[5]. Kiến trúc, bài trí và thờ cúng Như phần lớn các đền miếu của người Hoa, miếu Quan Đế (Nghĩa An Hội Quán) có kiến trúc tổng thể hình chữ khẩu (囗) hay chữ quốc (国) với các dãy nhà khép kính vuông góc. Nhìn chung, kiến trúc và trang trí ở miếu thể hiện rõ nét phong cách Triều Châu qua thiết kế, qua màu sắc (màu đỏ là màu chủ đạo). Tất cả đã thể hiện những giá trị nghệ thuật về thư pháp, chạm đá, chạm gỗ, ghép mảnh sành sứ,...ở nửa cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Lược kể từ ngoài vào trong: Mái ngôi miếu có 3 cấp: giữa cao, hai bên thấp hơn. Trên nóc có gắn tượng sành hình lưỡng long tranh châu. Sân miếu khá rộng, gần 2.000 m², chiếm hơn phân nửa diện tích khuôn viên. Phần còn lại gồm tiền điện, sân thiên tỉnh, chính điện và văn phòng hội quán dọc hai bên các điện thờ. Từ hai cổng lớn vào đến cửa miếu có năm cặp kỳ lân lớn nhỏ bằng đá đặt đối xứng nhau. Đẹp hơn cả là cặp "lân hàm châu" (lân ngậm ngọc) chầu hai bên cửa. Phía trên, trước biển chữ "Nghĩa An hội quán" treo bức nghi môn làm năm 1903, chạm nổi cảnh "Lục Quốc phong tướng". Trên vách mặt tiền hai bên cửa miếu chạm chìm các chữ Hán và sáu bức chạm cành trúc khác nhau. Từ ngoài sân bước vào là tiền điện. Chính giữa tiền điện bày một hương án, trên đặt chiếc lư hương bằng đồng làm vào năm Đạo Quang thứ 5 (1825). Bên trái tiền điện là bệ cao thờ Phúc Đức chính thần (phần lớn người Hoa quan niệm vị thần này là ông Bổn hay là thần Thổ Địa). Bên phải là tượng Mã Đầu tướng quân (người giữ ngựa Xích Thố cho Quan Công) đứng bên ngựa Xích Thố (bằng gỗ sơn đỏ cao trên 2 m). Ngoài ra, ở đây còn có một quả chuông cao 39 cm, đường kính 46 cm, 2 bên đúc 2 đầu lân, đường nét tinh xảo, phía trước có hàng chữ "Quan...
Read moreThứ 7 ngày 22/2 (25 âm lịch) Cũng như mọi năm tôi đều đến hội quán để xem ca kịch , năm nay thì hơi đặc biệt vì có đoàn ca kịch bên Trung Quốc qua diễn , cũng vì thế mà có khá đông người đến xem. Khi nào bên hội quán có diễn kịch thì họ đều có nấu cháo trắng theo kiểu gia đình người Tiều (cháo trắng ăn với cà na, đồ chua ngâm, chao, xá bấu,...) để dành cho những người trong hội quán ăn và họ có để riêng ra 1 bàn dành cho khách vãng lai.
Chuyện không có gì để nói đến khi tôi đi vệ sinh có đi ngang chổ bếp thì lúc này là tầm 8h tối có khoảng 7 8 người đều là cô chú lớn tuổi đang ngồi chờ ăn cháo, nhưng cho tới khoảng gần 9h tôi có quay lại đi vệ sinh thì thấy mọi người vẫn phải ngồi chờ và chưa có cháo , trong khi đó tôi nhìn vào trong của 2 bên phòng thấy người thân và người của hội quán đang ăn và lên món liên tục. Đó giờ tôi không rành vụ này thật mặc dù năm nào cũng đi vì là nhà cũng là người Tiều nên với món cháo này không có gì xa lạ, mà cái món cháo này cũng không phải cao sang hay mắc tiền gì mà bên hội quán làm chuyện thật sự khó coi. Đã không bưng cháo lên thì thôi đi tôi còn thấy bạn nữ phục vụ còn bưng cả đóng tô chén lên cái bàn mà mọi người đang ngồi chờ để mà lau, phải nói chấm hỏi thật sự luôn. Nếu mà hội quán thấy tiết tiền thì thôi đừng bày vẽ để 1 BÀN mời người ta làm chi, cứ để dành cho người thân gia đình trong hội quán mà ăn, nếu ăn không hết cứ gói đem về để ngày mai tiếp tục ăn sáng... chứ đã nấu mực, trứng xá bấu để riêng mình ăn rồi chỉ cho người ta ăn cháo trắng với cà na thôi mà còn làm hơn đãi bào ngư vi cá không bằng. Nói thiệt tôi đi nhiều chùa người Việt người ta mời ăn hả hê, phải nói đúng là từ "mời" chứ còn như kiểu hội quán là bố thí rồi, cái kiểu phải đợi mấy ông mấy bà ăn xong nào dư rồi người ta mới được ăn hay sao? (tọ mè nắng, chèm sép cúi)
Đó là phần ăn thôi còn thêm phần coi kịch nữa. Đúng ra là phải có vé mới vào hàng ghế trong xem được nhưng thực tế lúc nào cũng dư ghế , nhất là những lúc sau 9h. Lúc mà gần 10h tôi chuẩn bị đi về thì có đứng lên đi ra phía cổng và thấy lúc này cũng dư ghế nhiều rồi, đặc biệt là mấy hàng ghế cuối... vậy mà nhiều người xin vô ngồi coi không cho, thậm chí có mấy cô chú lớn tuổi xin vô cũng không cho luôn, mà cái thái độ của thanh niên coi cửa đuổi mọi người ra cũng hóng hách chứ không phải dịu dàng gì. Thật sự mà nói nhiều người họ nghe kịch nhưng họ có hiểu đâu mà họ vẫn đến xem như vậy đã quá quý rồi ấy vậy mà dư ghế trống cũng không chịu du di cho người ta vô ngồi. Miếng ăn thì tiết rẻ, đến ghế bỏ trống cũng keo kiệt...
Read more