The Hue Museum of Royal Antiquities (Bảo tàng Cổ vật Cung đình) is a fascinating journey into Vietnam’s royal past. Located in Hue, the former imperial capital, this museum is housed in a traditional wooden structure, reflecting the architectural beauty of the Nguyen Dynasty. Stepping inside, you’re greeted by an impressive collection of artifacts, each offering a glimpse into the rich history and refined culture of the Vietnamese royalty.
The museum’s exhibits include intricately crafted ceramics, ornate clothing, and ceremonial items used by the Nguyen emperors. One highlight is the collection of imperial seals and personal belongings, which convey the power and elegance of the imperial court. The presentation is tasteful and respectful, with detailed descriptions (in both Vietnamese and English), making it easy to appreciate the cultural significance of each item.
The serene, well-maintained garden surrounding the museum adds to the experience, providing a peaceful place for reflection after the tour. The museum staff are knowledgeable and happy to answer questions, enhancing the educational experience.
Overall, the Hue Museum of Royal Antiquities is a must-visit for anyone interested in Vietnamese history and heritage. This museum offers a 5/5 star experience, skillfully blending education, history, and beauty into an unforgettable...
Read moreBảo tàng cổ vật cung đình Huế – Nơi lưu giữ nét văn hóa cố đô
Huế là thành phố với nhiều công trình kiến trúc độc đáo, với nhiều đền đài lăng tẩm mang dấu ấn lịch sử của các vị vua triều Nguyễn. Đến Huế ngoài tham quan những nơi như Đại Nội, lăng Khải Định, lăng Tự Đức… bạn nên ghé đến tham quan bảo tàng cổ vật cung đình Huế để có thể chiêm ngưỡng những hiện vật, cũng như tìm hiểu về cuộc sống vương triều xưa của thành phố cổ kính này.
Đôi nét về bảo tàng cổ vật cung đình Huế Bảo tàng cổ vật cung đình Huế hiện đang thuộc sự quản lý của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế. Bảo tàng nằm ở số 03, Lê Trực, phường Thuận Thành, Thành phố Huế.
Đây được xem là bảo tàng được thành lập sớm nhất ở Huế, vào năm 1923. Lúc mới được thành lập bảo tàng có tên là Musee’ Khải Định. Sau đó, nó đã năm lần được thay đổi tên: Tàng Cổ Viện Huế (từ năm 1947, dưới thời hội đồng chấp chính Trung Kỳ). Ngày 29 tháng 9 năm 1958 chiếu theo Nghị định 1479-DG/NĐ thì Viện Tàng cổ đổi tên thành Viện Bảo tàng Huế thuộc Viện Khảo cổ, Bộ Quốc gia Giáo dục của Việt Nam Cộng hòa. Cùng lúc đó Phòng Cổ vật Chàm cũng được sát nhập vào Viện Bảo tàng Huế. Rồi lần lượt đổi tên là Nhà trưng bày cổ vật (từ năm 1979), Bảo tàng cổ vật Huế (từ năm 1992) Bảo tàng mỹ thuật cung đình Huế (từ năm 1995) và cuối cùng là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế.
Bên trong bảo tàng cổ vật cung đình Huế Tòa nhà chính của viện bảo tàng có tên là Long An. Tòa nhà này chính là điện Long An xây năm 1845 dưới thời vua Hiến tổ nhà Nguyễn, niên hiệu là Thiệu Trị. Nơi này trưng bày hơn 300 hiện vật bằng vàng, sành, sứ, pháp lam Huế, ngự y và ngự dụng, trang phục của hoàng thất nhà Nguyễn, cho khách tham quan một cái nhìn tổng thể về cuộc sống cung đình Huế.
Ngoài ra bảo tàng cổ vật cung đình Huế hiện còn có tới 700 hiện vật gồm gốm mộc, gốm tráng men từ thời nhà Lý đến thời nhà Nguyễn. Ngoài ra còn có gốm sứ Trung Hoa, Nhật Bản, Pháp… Có thể nói bảo tàng là một bộ sưu tập gốm sứ của triều Nguyễn và các nước. Ngoài các hiện vật được trưng bày, bảo tàng còn cất giữ hàng ngàn hiện vật khác. Nhiều nhất ở đây là đồ sứ men lam, thường được gọi là “Bleu de Hue” – còn gọi là đồ cổ “pháp lam Huế”. Đây là “đồ kiểu” được chế tác bằng kỹ thuật cao, do triều đình nhà Nguyễn đặt làm từ các lò sản xuất đồ gốm nổi tiếng bên Trung Hoa, căn cứ theo sở thích, mẫu mã, kích cỡ mà vua quan Việt Nam nêu ra trong “đơn đặt hàng”. Bởi vậy, đồ cổ pháp lam là các tác phẩm không có bản sao và là “độc nhất vô nhị” bởi do các tác phẩm làm theo đơn đặt hàng. Trong kho gốm men cũng có một số đồ sản xuất tại Pháp, Nhật, Anh, Mỹ… Khoảng 100 bộ áo quần của các vua, hoàng hậu, hoàng tử, quan lại, lính tráng cũng đang được lưu giữ ở kho đồ vải. Ngoài ra còn rất nhiều hiện vật làm bằng thủ công khá độc đáo được xem là vô giá.
Trong khuôn viên bảo tàng này, còn có một nhà kho khác tàng trữ hơn 80 hiện vật Chàm được sưu tầm tại vùng châu Ô, châu Lý ngày xưa, và mang ra từ Trà Kiệu trong những cuộc khai quật khảo cổ học tại đó vào năm 1927. Riêng các hiện vật Chàm đã từng được những nhà nghiên cứu đánh giá là những di sản văn...
Read moreTừ thời các chúa Nguyễn, Huế đã từng được chọn làm thủ phủ xứ Đàng Trong: năm 1635-1687 Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần dựng phủ ở Kim Long; đến thời Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Khoát đã dời phủ về Phú Xuân trong những năm 1687-1712; 1739-1774. Đến thời Tây Sơn, Huế vẫn được vua Quang Trung chọn làm thành kinh đô cho vương quốc của ông. Năm 1802, khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, mở đầu cho vương triều Nguyễn kéo dài suốt 143 năm, một lần nữa lại chọn Huế làm nơi đóng đô.
Kinh thành huế được xây dựng theo kiến trúc Vauban. [cần dẫn nguồn] Kinh thành Huế có 3 vòng thành lần lượt là Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm Thành. Ngay sau khi lên ngôi, Gia Long đã tiến hành khảo sát chọn vị trí xây thành mới, cuối cùng ông đã chọn vùng đất rộng bên bờ bắc sông Hương gồm phần đất của các làng Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hoà, An Mỹ, An Bảo, Thế Lại cùng một phần của hai con sông Bạch Yến và Kim Long làm nơi xây thành[1]. Về mặt phong thuỷ, tiền án của kinh thành là núi Ngự Bình cao hơn 100 mét, đỉnh bằng phẳng, dáng đẹp, cân phân nằm giữa vùng đồng bằng như một bức bình phong thiên nhiên che chắn trước kinh thành. Hai bên là Cồn Hến và Cồn Dã Viên làm tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ (rồng xanh bên trái, hổ trắng bên phải) làm thế rồng chầu hổ phục tỏ ý tôn trọng vương quyền. Minh đường thủy tụ là khúc sông Hương rộng, nằm dài giữa hai cồn cong như một cánh cung mang lại sinh khí cho đô thành[2]. Kinh thành Huế được đích thân Gia Long chọn vị trí và cắm mốc, tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chình vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, công trình xây dựng Kinh Thành Huế có lẽ là công trình đồ sộ, quy mô nhất với hàng vạn lượt người tham gia thi công, hàng triệu mét khối đất đá, với một khối lượng công việc khổng lồ đào hào, lấp sông, di dân, dời mộ, đắp thành... kéo dài trong suốt 30 năm dưới hai triều vua[3].
Sau năm 1945, chiến tranh loạn lạc, trong nội thành không ai quản lý, người dân vào sống men theo tường Kinh thành và khu vực Eo Bầu. Lâu dần, nơi đây hình thành cụm dân cư. Người dân nghèo lấn chiếm bề mặt Thượng Thành, Eo Bầu dựng nhà và trồng hoa màu. Hiện có 4.200 hộ dân với khoảng 15000 người dân thuộc 7 phường của thành phố Huế đang sống và canh tác trong khu vực này. Việc người dân lấn chiếm đất Kinh thành dựng nhà trú ngụ trên Thượng Thành, xả rác, nước thải sinh hoạt... đã làm cho nền đất ngày càng lún sâu, nứt hỏng nhiều chỗ.
Năm 2019, Thừa Thiên - Huế khởi động Đề án “Di dời dân cư, giải phóng mặt bằng khu vực I hệ thống di tích Kinh thành Huế thuộc Quần thể di tích Cố đô Huế”. Đề án thực hiện trong 6 năm, từ năm 2019 đến năm 2025 với kinh phí hơn 4.000 tỷ đồng. Theo đó, người dân sống ở khu vực I di tích Kinh thành Huế đồng ý ra đi vào các khu tái định cư, trả lại không gian xưa cho Di sản Văn hóa...
Read more