NĂM THÌN NÓI CHUYỆN "RỒNG"
Không chỉ gắn liền với đời sống văn hóa tâm linh, rồng còn là biểu tượng của mọi vương triều, của mọi vị vua.
Với triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam với 143 năm tồn tại, hình tượng rồng cũng song hành như hiện thân của quyền lực trong suốt những năm tháng đó. Kể từ đây, các linh vật trong Tứ linh được sử dụng trang trí dày đặc trong đời sống cung đình với những nét thành công nhất.
Nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh cho hay, con rồng thời Nguyễn thể hiện sự uy nghiêm, biểu trưng cho vương quyền. Thế nên, nó thường ngự trị trên nóc các cung điện, đền miếu và đồng thời phô diễn tất cả sự bay bổng, sự uy nghiêm từ bờm, râu, chân, độ uốn… Rồng thời Nguyễn với hình ảnh rất uy nghiêm với một tỉ lệ chiều cao vươn lên không trung, không thể hiện chuỗi dài như thời Lý, thời Trần nữa… mà nghệ nhân thể hiện những đường nét oai hùng của Long (rồng) con vật đứng đầu của Tứ linh.
Cùng chung quan điểm, nhà báo Nguyễn Đình Đính chia sẻ: Hình ảnh con rồng từ thời Lý, Trần đến thời Nguyễn là một sự chuyển hóa từ nghệ thuật trang trí thuần túy sang nghệ thuật trang trí để khẳng định vương quyền. Điều này thể hiện rõ nhất ở các điểm như bộ vảy, đôi mắt... thời Nguyễn rồng đã có bộ vảy hoàn chỉnh, xếp lớp rất dày và kín kẽ. Điều đó không chỉ hoàn thiện về mặt mỹ thuật tạo hình mà còn tạo nên một hình ảnh mạnh mẽ cho rồng thời Nguyễn.
“Đặc biệt, đôi mắt đã được tô điểm bởi ánh lửa viền xung quanh của rồng thời Nguyễn. Ánh lửa ấy, một biểu hiện của quẻ Ly, của hành Hỏa, là sự thể hiện cai quản phương Nam của vương triều Nguyễn cũng như sự tồn tại bền vững”, nhà báo Nguyễn Đình Đính bày tỏ quan điểm.
" Huế - Vùng đất của rồng”
Có mặt tại cố đô Huế từ những năm đầu thế kỷ XX, những nhà nghiên cứu phương Tây cũng đã chịu “sức thu hút” hình tượng rồng trong mỹ thuật triều Nguyễn.
Với những bài viết của Đại úy P. Albrecht “Những họa tiết của nghệ thuật trang trí ở Huế: Con Rồng” (Những người bạn cố đố Huế- Bulletin des Amis du Vieux Hue B.A.V.H, Nhà xuất bản Thuận Hóa) hay nghiên cứu kỳ công về họa tiết “con Rồng” trong họa tiết với muông thú của linh mục Léopold Cardière - một nhà sử học kiêm nhà văn người Pháp.
“Trong Hoàng cung, rồng như thể ở ngôi nhà của mình, vì rồng biểu tượng cho hoàng đế. Nhưng người ta cũng thấy hình ảnh rồng ở các chùa hay nơi tư gia, trên các đường mái, ở mặt tiền, trên các đà nhà, trên đồ nội thất hay vải vóc, trên bát đĩa và cả đến những cây kiểng thấp nhỏ được tỉa gọt sao cho thành hình con rồng”, Léopold Cardière viết.
Theo tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn, hình ảnh con rồng là sự thể hiện thành công nhất trong nghệ thuật thời Nguyễn. Nghệ nhân thuở ấy tạo nên hình ảnh con rồng không chỉ vì phụng sự mục đích nghệ thuật mà còn phải tuân thủ những định chế xã hội, những thiết chế văn hóa đương thời. Vì những lý do này mà cách thể hiện hình tượng con rồng dưới thời Nguyễn rất đa dạng và phong phú.
“Chỉ xét riêng ở Huế, trung tâm văn hóa, chính trị và nghệ thuật lớn nhất bấy giờ, sự phong phú đó được biểu hiện trên nhiều mặt: Không gian, chất liệu, nghệ thuật thể hiện và đề tài trang trí. Và cố đô Huế được xem như “vùng đất của rồng”, tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn nhấn mạnh. ... Điều đặc biệt, trong nền nghệ thuật và kiến trúc thời Nguyễn, con rồng không phải là vật sở hữu của riêng nhà vua hay hoàng gia. Con rồng đã vượt khỏi chốn cung đình và hiện diện khắp nơi trên xứ Huế, trở thành một nét văn hóa, một biểu tượng nghệ thuật của Cố đô Huế. Ngoài những hình tượng rồng mang biểu trưng của đế vương: Uy nghi và cầu kỳ, xứ Huế còn có những con rồng đã được “dân dã hóa” thành những con giao, con cù… bình dị, xuất hiện ở nơi đình làng, chùa miếu dân gian.
“Và đôi khi, những con rồng “dân dã” này lại sống động hơn, giàu tính biểu cảm hơn những con rồng uy nghi ở chốn cung đình. Đây chính là điều tạo nên sự thú vị cho ai đó khi họ tìm đến Huế để tham quan, khám phá và tìm hiểu về “vùng đất của rồng””, tiến sĩ Trần Đức Anh...
Read moreĐiện Thái Hòa là cung điện chính nằm trong khu vực Đại Nội của kinh thành Huế, là nơi đăng quang của 13 vua triều Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại. Trong chế độ nhà Nguyễn cung điện này được coi là trung tâm của đất nước, là nơi hàng tháng vua thiết triều nghe tấu trình của các quan vào ngày rằm và mùng một.
Là nơi thể hiện uy quyền của quốc gia,điện được xây trên nền cao 1 mét, diện tích 1360 m², nguy nga bề thế trông ra một sân rộng.
Cung điện được xây theo lối trùng thiềm điệp ốc và được chống đỡ bằng 80 cột gỗ lim được sơn thếp và trang trí hình rồng vờn mây - một biểu tượng về sự gặp gỡ giữa hoàng đế và quần thần đúng như chức năng vốn có của ngôi điện. Nhà trước và nhà sau của điện được nối với nhau bằng một hệ thống trần vòm mai cua dưới máng nước nối của hai mái nhà (thuật ngữ kiến trúc gọi là máng thừa lưu). Chính trần mai cua này nối với nửa trong tạo ra một không gian nội thất liên tục, thống nhất, rộng rãi, không còn cảm giác ghép nối hai tòa nhà. Việc ứng dụng máng thừa lưu là một sáng tạo của người xây dựng điện, nó chẳng những che kín được sự lõm xuỗng của nơi nối hai mái mà còn tạo nên nhịp điệu kiến trúc. Đây cũng là một dụng ý của kiến trúc sư. Do thời tiết và kiến trúc cổ truyền Việt Nam mà điện không thể xây cao như của Trung Quốc, vì vậy nửa ngoài mái cao hơn, nửa trong mài thấp hơn. Mục đích là tạo cảm giác "cao" cho gian ngoài- nơi bá quan hành lễ, bên trong thấp vừa làm nổi bật gian ngoài vừa là nơi vua ngồi nên kín đáo, uy nghiêm.
Hệ thống vì kèo nóc nhà sau tương đối đơn giản, chỉ làm theo kiểu "vì kèo cánh ác", nhưng hệ thống vì kèo nóc nhà trước thì thuộc loại vì kèo "chồng rường - giả thủ" được cấu trúc tinh xảo. Toàn bộ hệ thống vì kèo, rường cột, ở đây đều liên kết với nhau một cách chặt chẽ bằng hệ thống mộng chắc chắn.
Mái điện lợp ngói hoàng lưu ly, nhưng không phải là một dải liên kết mà được chia làm ba tầng chồng mí lên nhau theo thứ tự từ cao xuống thấp, gọi là mái "chồng diêm", mục đích là để tránh đi sự nặng nề của một tòa nhà quá lớn đồng thời để tôn cao ngôi điện bằng cách tạo ra ảo giác chiều cao cho tòa nhà. Giữa hai tầng mái trên là dải cổ diêm chạy quanh bốn mặt của tòa nhà. Dải cổ diêm được phân khoảng ra thành từng ô hộc để trang trí hình vẽ và thơ văn (197 bài thơ)trên những tấm pháp lam theo lối nhất thi nhất họa.
Trang trí cũng như kiến trúc của điện Thái Hòa nói chung, có một khái niệm đặc biệt đáng chú ý là con số 5, và nhất là con số 9. Hai con số này chẳng những xuất hiện ở trang trí nội ngoại thất của tòa nhà mà còn ở trên các bậc thềm của điện. Từ phía Đại Cung Môn của Tử Cấm Thành đi ra điện Thái Hòa, vua phải bước lên một hệ thống bậc thềm ở tầng nền dưới là 9 cấp và ở tầng nền trên là 5 cấp. Trước mặt điện số bậc cấp bước lên Đệ nhị Bái đình và Đệ nhất Bái đình cộng lại là 9. Tiếp đó, hệ thống bậc thềm ở nền điện cũng có 5 cấp. Đứng ở sân Đại triều nhìn vào hay từ phía Tử Cấm Thành nhìn ra người ta đều thấy trên mỗi mái điện đều được đắp nổi chín con rồng ở trong các tư thế khác nhau: lưỡng long chầu hổ phù đội bầu rượu, lưỡng long triều nhật, hồi long (rồng quay đầu lại), rồng ngang v.v…Ở nội điện cũng thế, từ ngai vàng, bửu tán, các mặt diềm gỗ chung quanh cho đến mỗi mặt của ba tầng bệ mỗi nơi đều trang trí một bộ...
Read moreĐIỆN THÁI HÒA – TRÁI TIM CỦA HOÀNG THÀNH HUẾ
Nằm ở vị trí trung tâm trong Đại Nội Huế, Điện Thái Hòa là công trình quan trọng bậc nhất của Kinh thành, nơi từng diễn ra các nghi lễ trọng đại của triều đình nhà Nguyễn. Không chỉ mang giá trị lịch sử to lớn, điện còn là một tuyệt tác kiến trúc cổ kính đầy uy nghi và tinh xảo.
🏯 Biểu tượng quyền lực của triều đình nhà Nguyễn Được xây dựng từ năm 1805 dưới triều vua Gia Long và trùng tu nhiều lần sau đó, Điện Thái Hòa là nơi thiết triều của vua – nơi diễn ra các lễ đăng quang, tiếp sứ thần và các buổi thiết đại triều vào các ngày rằm, mồng một. Cái tên “Thái Hòa” mang ý nghĩa hòa hợp lớn – sự hài hòa giữa trời đất, giữa vua và dân.
Bước vào điện, du khách dễ dàng cảm nhận không khí trang nghiêm và thiêng liêng. Ngay chính giữa là ngai vàng – biểu tượng tối thượng của quyền lực quân chủ. Cấu trúc điện theo lối “trùng thiềm điệp ốc” (hai tầng mái chồng lên nhau), sử dụng đến 80 cây cột lim sơn son thếp vàng, tạo nên vẻ uy nghi và bền vững.
🎨 Nghệ thuật kiến trúc và trang trí đỉnh cao Điện Thái Hòa là một trong những công trình còn giữ nguyên phần mái lợp ngói hoàng lưu ly, tượng trưng cho hoàng quyền. Nội thất được trang trí bằng họa tiết rồng – linh vật tượng trưng cho vua, xuất hiện khắp nơi: trên cột, xà nhà, bệ ngai vàng… tạo nên cảm giác vừa lộng lẫy vừa linh thiêng.
Tất cả đều tuân thủ nguyên tắc kiến trúc truyền thống Việt Nam, thể hiện tinh thần Nho giáo: cân bằng, trang nghiêm và hòa hợp với thiên nhiên.
📍 Trải nghiệm khi tham quan Du khách sẽ được hướng dẫn đi theo lối "ngự đạo" – con đường chính giữa dành riêng cho vua – tạo cảm giác như quay về một triều đại vàng son.
Bên trong không khí khá mát mẻ nhờ kết cấu mở, cao ráo. Tuy nhiên, bạn nên giữ trật tự, tránh quay phim – chụp ảnh tại một số khu vực trang nghiêm như ngai vàng.
Thời điểm tham quan lý tưởng là buổi sáng hoặc chiều mát, tránh nắng gắt vì lối đi giữa Đại Nội khá rộng và ít bóng râm.
📌 Ghi chú: Điện Thái Hòa hiện đang trong quá trình trùng tu (từ năm 2022 – dự kiến đến cuối 2025), nhưng du khách vẫn có thể tham quan, chụp ảnh và tìm hiểu qua các bảng mô tả, mô hình phục dựng 3D bên ngoài.
Giá vé vào Đại Nội Huế: 200.000đ/lượt với người lớn (nội địa), đã bao gồm tham quan điện Thái Hòa và các điểm khác như Thế Miếu, Cửu Đỉnh, Tử Cấm Thành…
Tổng kết: Điện Thái Hòa là điểm nhấn quan trọng nhất trong quần thể Đại Nội Huế, không chỉ đại diện cho quyền lực phong kiến Việt Nam, mà còn là một kiệt tác nghệ thuật, kết tinh tinh thần văn hóa cung đình xưa. Dù đang được trùng tu, giá trị và vẻ đẹp của công trình này vẫn còn nguyên vẹn, khiến bất kỳ ai đặt chân tới cũng phải trầm trồ và kính nể.
⭐ Đánh giá: 5/5 – Một điểm đến không thể bỏ...
Read more